Quyết định 97 – Phản Biện, Phản Động, hay Phản Tiến Hóa?

30/08/2009

Quyet Dinh 97“Tôi khinh miệt những cái mồm oang oang rao giảng và ’khích lệ’ sự phản biện, nhưng lại lăm lăm trong tay miếng băng keo và cái… còng số 8”, câu nói ngắn gọn đó của nhà báo Võ Đắc Danh lại gieo nhiều đồng cảm và để lại dư âm dài trong những tấm lòng cương trực trên đất Việt hôm nay. Đặc biệt vào lúc mà giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam thấy rằng, sau hàng chục năm dài “đảng là chân lý”, tiếp đến nghị định 31/CP và nay là thời của luật hình sự 88, không biết bao nhiêu hình thức “băng keo và còng số 8” đã được đảng dùng đến, nhưng xem ra vẫn chưa đủ. Bây giờ, qua quyết định 97 của ông Nguyễn Tấn Dũng, đảng phải chuẩn bị thêm nhiều băng keo và còng số 8 thích hợp khác để dùng sau ngày 15 tháng 9 này, hầu đáp ứng được nhu cầu bức thiết của đảng trong thời gian sắp tới.

Thực ra quyết định 97 chỉ liên quan đến việc tư nhân tham gia nghiên cứu khoa học công nghệ. Nhưng quyết định này lại ghi rõ rằng: “Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cần phải gởi ý kiến phản biện đó cho các cơ quan Đảng và Nhà nước có thẩm quyền, chứ không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ.”. Với chính sách về phản biện được xác định như vừa kể, quyết định 97 đã gặp nhiều phản ứng không đồng tình của giới trí thức ngay sau khi được công bố. Trong mấy tuần vừa qua, nhiều chuyên gia đã vạch rõ từ sự sai phạm trong việc ra văn bản này, cho đến những phân tích và chứng minh đây chỉ là một hình thức “bịt miệng” phản biện xã hội, một bước thụt lùi về dân chủ, đi ngược lại chủ trương “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” và thậm chí đi ngược lại hiến pháp hiện hành…

Ngay cả những người dễ tính nhất cũng thấy sự vô dụng của văn bản này. QĐ 97 quy định “cần phải gởi ý kiến phản biện cho các cơ quan Đảng và Nhà nước có thẩm quyền“. Đối với giới trí thức suốt hơn nửa thế kỷ qua, và hiện nay với ngay cả những người như ông Võ Nguyên Giáp đã mấy lần gửi kiến nghị can ngăn đến Bộ Chính trị, mà còn bị đảng vứt sọt rác, rồi lại còn động viên ông tướng này hãy tiếp tục đóng góp ý kiến cho đảng. Trí thức Việt Nam đâu có khờ đến độ vẫn không biết các góp ý của mình đi đâu suốt hơn 50 năm qua và tại sao đất nước cứ vấp vào các hầm hố ngày càng sâu như hiện nay.

Phản biện là sự nhận xét, đánh giá và đóng góp ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó hầu làm cho vấn đề được sáng tỏ, đúng đắn hơn. Để được như vậy, và đặc biệt đối với các vấn đề mang tầm vóc quốc gia, sự phản biện phải công khai, minh bạch, độc lập và tự do. Phản biện được quy định trong quyết định 97 là về những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã, đang hoặc sẽ được thi hành trên đất nước. Với những lãnh vực vừa kể, thường thì giới chuyên gia, trí thức sẽ là thành phần lên tiếng phản biện. Như vậy, đối tượng chính của quyết định này là giới trí thức. Đến đây câu hỏi được đặt ra là: tại sao giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam lại không dám cho công khai phản biện về đường lối, chính sách, và chủ trương của họ?

Câu trả lời là, dù liên tục sai lầm, nhưng lúc nào đảng cũng muốn nắm quyền lãnh đạo duy nhất trên mọi phương diện của đất nước. Sự phản biện công khai sẽ ngày càng bóc trần con đường mòn tư duy xưa nay của “thiếu kiến thức nhưng làm đại rồi khỏa lấp hậu quả” trong lề lối lãnh đạo, đồng thời vạch rõ tinh thần vô trách nhiệm của 15 nhà cai trị đang ngồi ở Bộ Chính Trị, và hệ quả đã được thực tế chứng minh là, đất nước phải đối diện với đủ loại vấn nạn nặng nề như hiện nay. Vì vậy, phản biện công khai không những sẽ làm tổn hại cho tư thế lãnh đạo của đảng, mà sẽ còn dẫn đến nhiều hậu quả khôn lường khác. Vì một khi tư thế lãnh đạo của đảng bị lung lay, thì niềm tin vào đảng cũng bị soi mòn, dễ dàng tạo nên tình trạng “tự diễn biến” ngay chính trong hàng ngũ đảng viên. Đây là điều mà lãnh đạo đảng đang báo động bằng cả lời nói, văn thư, và báo chí. Tác động của “tự diễn biến” sẽ làm cho các cột trụ đang chống đỡ đảng mục dần từ trong ra, và sẽ theo nhau xụp đổ. Bởi vậy, tuy phản biện xã hội thường chỉ giới hạn trong thành phần trí thức, nhưng ảnh hưởng của nó lại rất rộng và hệ trọng, vì nó có khả năng tác động trên tư tưởng của toàn xã hội. Mà theo kinh điển cộng sản thì… “tư tưởng sớm muộn gì cũng sẽ dẫn đến hành động”.

Do tầm mức quan trọng như vừa kể, nên từ trước đến nay những tiếng nói phản biện hầu như bị dập tắt ngay từ trong trứng nước. Cuộc đàn áp nhân văn giai phẩm vào thập niên 1950 của thế kỷ trước chính là một chiến dịch để tiêu diệt những tiếng nói phản biện của giới văn nghệ sĩ, trí thức thời đó. Tiếp theo, những cuộc đàn áp, bắt bớ, giam cầm những nhà trí thức trong cuộc thanh trừng “xét lại chống đảng”, cũng không nằm ngoài chủ trương này, để cuối cùng trong xã hội chỉ còn lại tiếng nói duy nhất của đảng và “đảng là chân lý”; còn đối với nhân dân thì phản biện được đồng hoá với “chống đối”, với “phản động”, dễ dàng bị nâng lên hàng “quan điểm” để bị trừng trị… Hệ quả là hầu hết con người trong xã hội chỉ còn có thể biến thành một đàn cừu, hoặc là chỉ biết nhắc lại ý của đảng, hoặc bưng tai bịt mắt trước những sai trái trong các đường lối, chính sách của đảng… Một thí dụ điển hình vẫn thường được nhắc lại để minh họa mức tai hại của sự vắng bóng phản biện trong xã hội, là nghị quyết đại hội lần thứ tư của đảng, với chủ trương “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội ”. Lúc đó hầu như bất cứ văn bản nào của chế độ cũng đều mở đầu bằng hàng chữ: “Dưới ánh sáng nghị quyết 4 của đảng….”. Nhưng đến khi bắt buộc phải “đổi mới” từ thời 1986 đến nay, thì cũng chính giới lãnh đạo đảng đã không tiếc lời chê bai cái thời bao cấp dưới “ánh sáng nghị quyết 4 của đảng” đó; và họ làm như thể sự bần cùng của đất nước, sự tụt hậu vì điểm xuất phát quá thấp là do ai đó tạo ra, chứ đảng chẳng có trách nhiệm gì cả. Và cứ thế họ tiếp tục huênh hoang về công trạng lãnh đạo của đảng đối với đất nước… Tuy nhiên, cũng kể từ đó, giới trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam đã tận dụng mọi cơ hội để gióng lên tiếng nói phản biện trước những chính sách, đường lối của đảng.

Bài viết “Bàn về sự lãnh đạo của Đảng” trên báo Khoa Học và Tổ Quốc số tháng tư năm 1990 của ông Nguyễn Kiên Giang được dư luận coi là một trong những bài phản biện mạnh mẽ nhất của thời đó. Đương nhiên tờ báo này ngay lập tức bị đóng cửa 10 tháng và tác giả bị trù dập tàn nhẫn. Trong bài viết này, ông Nguyễn Kiên Giang đã thẳng thắn nhận định rằng “Mọi ý kiến khác với ý kiến những người lãnh đạo của Đảng bị coi là chống Đảng, mà chống Đảng cũng có nghĩa là chống Nhà nước, chống chế độ, chống cách mạng. Cho đến khi Đảng nhận ra được những sai lầm của mình (triệt để hay không triệt để) thì xã hội đã gánh chịu những hậu quả cay đắng, chưa nói tới một số người phải chịu đựng sự trừng phạt trái pháp luật mà đến nay vẫn chưa giũ bỏ dược hết số phận oan trái của mình.” Sau khi phân tích về sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng đưa đến những đặc quyền cho đảng, ông đã nhấn mạnh rằng:“Nhưng còn một thứ đặc quyền khác còn nguy hiểm hơn nhiều: đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý. Có thể tính tác hại của đặc quyền vật chất thành những số tiền của mất đi, nhưng không thể nào tính được tác hại của đặc quyền tinh thần của độc quyền chân lý bằng những thước đo sờ thấy. Mà tác hại của thứ đặc quyền này đối với xã hội thì thật ghê gớm.”

Đến nay, gần 20 mươi năm sau khi ông Nguyễn Kiên Giang viết những giòng trên, giá trị của những nhận định đó vẫn nguyên vẹn. Do đó, những phản biện về đường lối, chính sách của đảng vẫn luôn luôn là nhu cầu bức thiết, nhất là tình hình đất nước lại đang nảy sinh thêm những vấn đề phức tạp khác phát xuất từ các “chủ trương lớn” của đảng. Thực ra bên cạnh vấn đề độc quyền lãnh đạo của đảng, từ đầu thập niên 90, những bài tiểu luận của ông Hà Sĩ Phu, đặc biệt là tập “Chia Tay Ý Thức Hệ”, đã đánh sập nền tảng tư tưởng Mác Lê, khiến cả một Hội Đồng Lý Luận Trung Ương của đảng không thể nào chống đỡ nổi; rồi sự phát triển của các phương tiện truyền thông đã ngày càng mở rộng thêm cho sự phản biện về mọi vấn đề của đất nước do đảng độc quyền kiểm soát. Nếu thực sự tự tin là mình có những đường lối đúng đắn, thì đảng đã không cần có nghị định 31/CP, không cần đến luật hình sự 88,… và không cần lúc nào cũng phải “tăng cường sự lãnh đạo của đảng” trong vấn đề này vấn đề kia. Do không tự tin, thiếu hiểu biết, thiếu chuẩn bị nên lúng túng trước những phản biện xã hội, đảng đã phải đẻ ra hết luật này này đến luật nọ, mà mục đích chỉ là để bịt miệng những tiếng nói phản biện. Và bây giờ là quyết định 97 để cho thấy rằng những cách bịt miệng và còng số 8 hiện có… vẫn chưa đủ.

Mới tháng 7 năm ngoái, nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đã phát biểu tại hội thảo của giới trí thức rằng: “Rõ ràng, phải tạo điều kiện hơn nữa cho tranh luận, phản biện”. Và rằng: “Cần mở rộng hơn nữa hệ tư tưởng, đặt đúng vai trò của trí thức”. Không biết lúc đó ông Tuyển có biết mình đang nói gì không, hay hiện giờ chính ông cũng đã bị “dán băng keo” rồi. Cũng không lẽ giới trí thức Việt Nam đã xuống cấp quá nhanh trong vòng 1 năm và không còn là trí thức nữa? Có lẽ dưới ánh sáng của QĐ 97, người ta chỉ còn có thể kết luận các tuyên bố của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển là “phản động”!

Phải chăng những phản biện của quần chúng về vấn đề biển, đảo, ngư dân và nhất là bô-xít Tây Nguyên đang làm cho đàn anh phương Bắc không hài lòng? Và phải chăng vì đã bỏ túi hơn 150 triệu đô thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải làm sao coi cho được? Phải chăng những lên tiếng của giới trí thức mà đảng không có cách nào phản bác được, nhưng lại vẫn muốn tiến hành “chủ trương lớn”, nên phải lập ra một khung pháp lý để ngăn chặn và dập tắt sự lên tiếng?

Bên cạnh đó còn nhiều vấn đề của đảng chưa được phản biện một cách rốt ráo, mà đảng sợ rằng, càng rốt ráo minh bạch thì đảng càng lâm vào thế bí. Chẳng hạn, như từ trước đến nay, đảng vẫn khép tội những người bất đồng chính kíến là “nói xấu nhà nước”, là “chống lại nhà nước XHCNVN”, v.v… Nếu không ngăn chặn phản biện công khai thì rồi đây sẽ có lúc vấn đề đặt ra sẽ là: “Một đảng và nhà nước nằm trong hệ thống diệt chủng như đã bị nghị quyết 1481của Nghị Viện Âu Châu lên án, thì đảng và nhà nước đó tốt hay xấu?“. “Một đảng và nhà nước bán đất, dâng biển cho ngoại bang, thì đảng và nhà nước đó tốt hay xấu? “v.v…. Nếu xấu, thì lên tiếng phản đối một đảng và nhà nước xấu là có tội, hay là nhiệm vụ của bất cứ một ai có lương tâm trên quả đất này?

Tóm lại, các nhà lãnh đạo tại Hà Nội biết rằng càng ngày họ sẽ càng bí lối về mặt lý luận cũng như trong việc biện minh cho những chính sách đường lối của họ, khi mà những phản biện công khai ngày càng vạch ra chuỗi sai lầm triền miên. Điều này chắc chắn sẽ gây thương tổn ngày càng trầm trọng cho tư thế lãnh đạo của đảng để dẫn đến những hậu quả khác như đã trình bày ở trên. Bởi vậy mà quyết định 97 đã ra đời để mong bịt miệng phản biện bằng bạo lực. Do đó QĐ 97 là bằng chứng về sự yếu kém và xuống cấp của lãnh đạo đảng CSVN.

Những nỗ lực cao quí hiện nay của giới trí thức Việt Nam cho thấy không mấy ai đã nhìn ra thực trạng đất nước mà còn có thể an tâm phó mặc tương lai dân tộc vào tay 15 con người thiếu cả khả năng lẫn tinh thần trách nhiệm. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả, giới trí thức Việt Nam đang đi đầu và hướng dẫn cả dân tộc trong nhận thức: Chống những người lãnh đạo bất xứng không phải là chống đất nước; và bảo vệ đồng bào ruột thịt lại càng không phải là chống đất nước.

Lê Vĩnh


Những Trang Nhật Ký Cuối Cùng Của Ông Kim Đại Trung

26/08/2009

20090826-Nhung trang nhat kyChỉ trong vòng ba tháng mà Hàn quốc đã mất đi hai vị cựu Tổng thống, trước hết là ông Lô Vũ Huyễn đã tự sát vào ngày 23/05/09 tại Busan vì không chịu nổi tai tiếng liên quan đến chuyện những người trong gia đình hay bạn bè thân thiết lợi dụng chức vụ của ông để làm nhiều điều bất chính. Chuyện tự tử của ông Huyễn đã làm cho chính quyền Hàn quốc phải khốn đốn một thời gian vì nhiều người dân cho rằng đây là âm mưu của đương kim Tổng thống Lý Minh Bác. Đến ngày 18/08/2009, Hàn quốc lại mất thêm một cựu Tổng thống khác nữa, đó là sự qua đời của ông Kim Đại Trung Trung (85 tuổi) vì bịnh viêm phổi. Cả ông Huyễn lẫn ông Trung đều là đối thủ chính trị hàng đầu của ông Bác, nhưng đám tang của ông Lô Vũ Huyễn được nâng lên thành Quốc Dân Táng và ông Kim Đại Trung là Quốc Táng.

Sự qua đời của hai vị cựu Tổng thống này đã làm cho chính quyền Bình Nhưỡng hụt hẫng vì từ đây khó có một nhân vật chính trị nổi tiếng nào của Hàn quốc có thể đứng ra hô hào viện trợ thật nhiều cho Bắc Triều Tiên như ông Huyễn, ông Trung. Tuy cố Tổng thống Lô Vũ Huyễn là người đã đổ nhiều tiền ra viện trợ cho Bắc Hàn, nhưng cố Tổng thống Kim Đại Trung mới là người chủ chốt trong sự viện trợ này qua chính sách Thái Dương, chính vì thế mà ngay sau khi nghe tin cố Tổng thống Kim Đại Trung qua đời, Bắc Hàn đã tỏ ý thương tiếc và lên tiếng sẽ cử một phái đoàn đến Seoul tham dự đám tang, nhưng Bình Nhưỡng không thông báo với chính phủ Hàn quốc mà qua văn phòng cựu Tổng thống Kim Đại Trung để yêu cầu sắp xếp mọi chuyện kể cả việc lo những thủ tục cần thiết lúc nhập cảnh. Những người nắm quyền ở Bắc Triều Tiên tiên đoán rằng chính quyền Hàn quốc khó mà cấm họ đến phúng điếu được.

Đòn này của Bình Nhưỡng khá độc, vừa tuyên truyền được rằng họ là ‘’Người ăn quả nhớ kẻ trồng cây’’, rất đúng với tinh thần Khổng giáo mà người dân Hàn quốc đang tôn sùng, vừa cho mọi người thấy họ chẳng coi chính quyền Seoul ra gì.

Ông Kim Đại Trung

Ông Kim Đại Trung

Khi phái đoàn Bắc Hàn gồm có 6 người do ông Kim Kí Nam (Ủy viên Trung ương đảng) dẫn đầu đến phi trường quốc tế Gimpo (Seoul) vào lúc 3 giờ chiều ngày 21/8 là mọi người thấy ngay chính quyền Hàn quốc đã phải nhượng bộ, nếu không muốn nói là đã thua cái đòn khá độc này của Bình Nhưỡng. Sau khi xuống máy bay, phái đoàn Bắc Hàn đã đến thẳng Quốc hội, nơi đặt bàn thờ cố Tổng thống Kim Đại Trung để đặt vòng hoa phúng điếu của ông Kim Chính Nhật, lãnh tụ Bắc Triều Tiên.

Theo các nhà quan sát tình hình bán đảo Triều Tiên thì nếu trước đó mấy ngày mà không có chuyện những trang nhật ký cuối cùng của cựu Tổng thống Kim Đại Trung được công bố thì có lẽ trên đường từ phi trường đến nơi phúng điếu, phái đoàn Bắc Hàn sẽ được nhiều người dân Nam Hàn ra đường đón chào mà chính quyền ông Lý Minh Bác không thể cấm được vì Hàn quốc là một quốc gia Tự do Dân chủ. Đây là điều mà Bình Nhưỡng nhắm đến. Những trang nhật ký cuối cùng của cựu Tổng thống Kim Đại Trung viết gì mà có thể thay đổi cục diện như thế? Xin thưa đó là những lời bi thán khi biết chính quyền ông Kim Chính Nhật sử dụng tiền viện trợ của Hàn quốc vào việc chế tạo tên lửa và vũ khí hạt nhân. Trong trang nhật ký đề ngày 26/5/2009, ông Trung viết như sau: “Tôi thật tình đau xót lương tâm và quá thất vọng khi biết là ngày hôm qua (25/5), Bằc Triều Tiên đã thử bom nguyên tử lần thứ hai. Đây là một hành động không thể chấp nhận được”.

Tưởng cũng nên nhắc lại là khi có mặt ở Âu châu, Tổng thống Lý Minh Bác đã nói trên đài truyền hình Euro News của Ba Lan rằng đã có nhiều bằng chứng cho thấy là suốt trong 10 năm qua, Bình Nhưỡng đã không sử dụng số tiền viện trợ của Hàn quốc qua chính sách Thái Dương để cải thiện đời sống cho người dân mà trút nó vào chuyện chế tạo tên lửa và thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Chính sách Thái Dương của cựu Tổng thống Kim Đại Trung sai lầm ở chỗ viện trợ vô điều kiện cho Bình Nhưỡng và không kiểm soát được số tiền đã viện trợ đi về đâu. Năm 1988, khi ông Trung cho tiến hành chính sách Thái Dương đã bị dư luận và nhiều bậc thức giả phản đối, nhưng ông Trung không chịu nghe, tệ hại hơn nữa là đến thời Tổng thống Lô Vũ Huyễn lại trút thêm ngân sách quốc gia vào cho chính sách Thái Dương này. Tổng cộng trong một thập niên qua hai ông Trung và Huyễn đã chi cho ông Kim Chính Nhật gần 7 tỷ mỹ kim để chế tạo vũ khí hạt nhân, để bây giờ người dân Nam Hàn phải chịu sự đe dọa của các loại vũ khí giết người không gớm tay này do chính tiền thuế đóng góp của mình.

Thủ bút của cựu Tống thống Kim Đại Trung trong những trang nhật ký cuối đời

Thủ bút của cựu Tống thống Kim Đại Trung trong những trang nhật ký cuối đời

Người ta chờ đợi sự phản luận của ông Kim Đại Trung về những lời phát biểu vừa rồi của Tổng thống Lý Minh Bác, nhưng không thấy. Bây giờ mói biết vào thời điểm đó ông Kim Đại Trung đã ân hận vô cùng về chuyện viện trợ cho Bình Nhưỡng gần như vô điều kiện. Hiển nhiên đây là bài học lớn cho các nội các Nam Hàn hiện tại và tương lai về bản chất của lãnh đạo Bắc Hàn và trong các chọn lựa đối sách.

Mặc dù ông Kim Đại Trung đã rất sai lầm khi quyết định viện trợ cho Bắc Triều Tiên gần như vô điều kiện qua chính sách Thái Dương, nhưng sự sai lầm đó phát sinh từ tình thương, muốn giúp cải thiện đời sống cho đồng bào miền Bắc chứ không phải để giúp cho chế độ độc tài, nên cựu Tổng thống Kim Đại Trung vẫn được nhiều người dân Hàn quốc kính mến và thương tiếc khi nghe tin ông qua đời. Có thể nói cuộc đời của ông Kim Đại Trung luôn đối diện với độc tài – cả độc tài quân phiệt và độc tài cộng sản, từng bị bỏ tù, bắt cóc và bị thủ tiêu hụt dưới các thời Tổng thống Nam Hàn nhưng cuối cùng vẫn vươn lên được. Khi biết được cộng sản lợi dụng lòng nhân đạo của mình, ông Kim Đại Trung chỉ ân hận về sự sai lầm của mình trong những trang nhật ký cuối đời và thương tiếc cho số phận đồng bào mình ở miền Bắc. Đúng là phong cách của một vĩ nhân.

Ngô Văn


Tư Duy Mới Về An Ninh Của Cộng Sản Việt Nam?

22/08/2009

20090822-Tu duy moi ve an ninh cua csvnĐến tham dự buổi lễ kỷ niệm 64 năm ngày thành lập ngành công an nhân dân tại Bộ công an ở Hà Nội hôm 19 tháng 8, Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Cộng sản Việt Nam, đã có một bài nói chuyện khá đặc biệt. Ngoài việc đề cập về một số nhiệm vụ mới của ngành công an, ông Dũng đã đặc biệt chỉ thị Bộ công an thay đổi cung cách hoạt động với một tư duy mới nhằm đáp ứng những biến chuyển của tình hình Việt Nam mà ông Dũng gọi là “đột biến” trong hai năm trở lại đây. Theo ông Nguyễn Tấn Dũng thì tư duy mới đó là: “cần phải nhạy bén, đặt an ninh quốc gia trong mối quan hệ qua lại với kinh tế, xã hội để bảo đảm vững chắc an ninh chính trị”. Với tư duy này, ông Dũng đã chỉ thị cho lực lượng công an phải: “tập trung đấu tranh, ngăn chận các thủ đoạn kích động ly khai dân tộc. Tăng cường triệt phá, bóc gỡ tình báo gián điệp. Chủ động ngăn chận không để xảy ra bạo loạn. Ngăn chận cho được việc lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo, vi phạm pháp luật gây rối trật tự xã hội”. Và để làm được những điều trên, ông Dũng còn yêu cầu lực lượng công an phải nắm bắt tình hình, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống.

Cái gọi là tư duy mới mà ông Dũng chỉ thị cho ngành công an nói trên, thật ra không có gì là mới ngoại trừ ông Dũng nêu lên vấn đề “đột biến” của tình hình kinh tế, xã hội trong hai năm trở lại đây, chứng tỏ những cuộc nổi dậy của quần chúng mà ông Dũng gọi là các cuộc bạo loạn xã hội đã làm chế độ của ông lo sợ. Thật vậy, những vấn đề mà ông Dũng yêu cầu lực lượng công an phải ngăn chận – không phải là những điều chưa hề xảy ra, nhưng do nhịp độ xảy ra dồn dập, đã đẩy lực lượng công an càng lúc càng rơi vào tình thế lúng túng đối phó. Những vấn đề an ninh mà ông Dũng yêu cầu lực lượng công an phải giải quyết tập trung vào 4 hiện tượng như sau:

Thứ nhất là ngăn chận các thủ đoạn kích động ly khai dân tộc. Ông Dũng muốn ám chỉ đến những cuộc chống đối của đồng bào sắc tộc tại Tây Nguyên ầm ĩ kéo dài hơn 2 thập niên qua. Ông Dũng từng là Thứ trưởng Bộ công an trước khi được ông Võ Văn Kiệt bổ nhiệm làm phó Thủ tướng đặc trách ổn định Tây Nguyên từ năm 2000, cho thấy là tình hình Tây Nguyên đã không ổn định chút nào. Cuối tháng 7 vừa qua, lực lượng công an đã khoe là bắt giữ hai người lãnh đạo cao cấp nhất của lực lượng FULRO tại Gia Lai. Theo công an mô tả thì hai người này đã hoạt động chống lại nhà nước Cộng sản Việt Nam trong suốt 20 năm qua, nhờ sự che giấu của các buôn làng ở vùng Tây Nguyên. Sự khoe khoang thành tích này đã để lộ cho người ta thấy là lực lượng công an và cả ông Nguyễn Tấn Dũng đều thất bại trong việc ngăn chận sức đối kháng bền bỉ của người sắc tộc.

Thứ hai là triệt phá, bóc gỡ tình báo gián điệp. Đây là thủ đoạn của Hà Nội nhằm ngăn chận quyền tự do thông tin của người dân khi sử dụng mạng Internet để trao đổi quan điểm và tin tức lẫn nhau giữa những người Việt ở trong và ngoài nước. Cộng sản Việt Nam đã từng dùng tội danh gián điệp để gán ghép cho các ông Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn khi những người này đã gửi các bài phê phán chế độ cho những người quen biết ở hải ngoại. Với làn sóng bộc phát của phong trào dân báo qua các phương tiện Blog, Facebook, Youtube, WordPress…. đã làm cho Cộng sản Việt Nam khó có thể ngăn chận những thông tin nhanh chóng về các biến cố xảy ra ở trong nước, nhất là những lúng túng đối phó của công an hay của các cấp chính quyền về các đòi hỏi của dân chúng hiện nay. Những diễn biến này đã làm thu hẹp khoảng không gian quyền lực của chế độ lên đời sống người dân, khiến cho Hà Nội lo ngại. Nhưng Hà Nội lại không dám công nhận sự yếu kém này mà lại đổ cho sự xúi giục của các thế lực từ bên ngoài, và hô hào lực lượng an ninh phải tận lực bóc gỡ tình báo gián điệp. Điều này cho thấy là ông Dũng và lực lượng an ninh cộng sản Việt Nam đã bị ám ảnh cùng tột khi nhìn đâu cũng thấy có kẻ thù, gián điệp.

Thứ ba là ngăn chận không để xảy ra bạo loạn. Đây là mối lo canh cánh bên lòng của cấp lãnh đạo Cộng sản Việt Nam kể từ khi biến cố Đông Âu bùng nổ vào năm 1989, đưa đến sự tan rã toàn diện các chế độ cộng sản tại Đông Âu và giựt sập thành trì vô sản chuyên chính tại Liên Xô vào năm 1991. Những thay đổi xã hội đến từ cải tổ kinh tế nhưng tiếp tục kềm kẹp chính trị chắc chắn sẽ tạo ra những hiện tượng chênh lệch giàu nghèo và tham ô nhũng lạm mà dân oan khiếu kiện là trường hợp điển hình. Từ đó những biến động, xung đột giữa các tầng lớp quần chúng giầu nghèo, giữa thường dân và thành phần quyền lực là điều đương nhiên. Hà Nội cho rằng những hiện tượng xung đột, bất mãn này sẽ bị lực lượng dân chủ khai thác để đẩy mạnh những đòi hỏi cải cách về chính trị như đòi dân chủ đa nguyên, tôn trọng nhân quyền, và chế độ đã tuyên truyền rằng những đòi hỏi này sẽ dẫn đến bạo loạn vì có mục tiêu lật đổ chính quyền chuyên chính. Dùng chữ bạo loạn để gán ghép cho những thay đổi dân chủ hóa là âm mưu của Cộng sản Việt Nam nhằm đe dọa nội bộ về nguy cơ tan rã nếu đảng chấp nhận dân chủ đa nguyên. Đây là sự cố thủ trong lô cốt độc tài Mác Lênin của Hà Nội. Sự kiện Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị cho lực lượng công an tăng cường ngăn chận để không xảy ra bạo loạn cho thấy là hai đối sách về chống tham nhũng và giải quyết vấn đề bồi hoàn ruộng đất của người dân đã không đạt kết quả như chế độ mong muốn.

Thứ tư là ngăn chận cho được việc lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo, vi phạm pháp luật gây rối trật tự. Những cuộc đấu tranh đòi lại tài sản của các cơ sở tôn giáo đã bị Cộng sản Việt Nam chiếm đoạt từ nhiều thập niên qua đã bộc phát một cách mạnh mẽ từ sau khi Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội đòi lại Khu Nhà Chung, và Dòng Chúa Cứu Thế đòi lại khu đất ở địa phận Thái Hà từ đầu năm 2008. Làn sóng hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn và lên đến hàng trăm ngàn giáo dân tham dự các Thánh lễ cầu nguyện cho Thái Hà, và mới đây cho Tam Tòa, đã biểu hiện rất nhiều đặc tính của đấu tranh Bất Bạo Động mà công an Cộng sản Việt Nam khó có thể ngăn chận. Các buổi lễ cầu nguyện đã được tổ chức công khai, ôn hòa nên đã thu hút đông đảo giáo dân tham gia. Dù có bị công an giả làm du đãng tấn công, các giáo dân vẫn không chống trả, duy trì kỷ luật và cương quyết tụ tập cầu nguyện dù có bị công an răn đe, sách nhiễu. Có thể nói là lực lượng an ninh cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn bó tay trước các hình thái đấu tranh ôn hòa, bất bạo động của giáo dân qua những buổi lễ này. Giải tán các buổi lễ cầu nguyện của giáo dân không được, Cộng sản Việt Nam lại xách mé gọi đó là “lợi dụng tự do tín ngưỡng để vi phạm pháp luật, gây rối trật tự”, và núp dưới tội danh vu cáo này để mang một số giáo dân ra xét xử hầu răn đe các giáo dân khác. Rất tiếc cho chế độ là hành vi “côn đồ” này của chính nhà nước đã bị phản ứng ngược, đó là các phiên tòa xét xử những giáo dân bị kết án là vi phạm trật tự xã hội đã biến thành nơi hạch tội chế độ Cộng sản Việt Nam.

Tổng kết lại, những điều mà ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị cho lực lượng công an ngăn chận trong ngày lễ truyền thống của công an hôm 19 tháng 8 vừa qua cho chúng ta thấy là Cộng sản Việt Nam đang lo ngại những biến chuyển đột phá của tình hình với nguy cơ giựt sập hệ thống đương quyền. Dù cố tình xuyên tạc và bóp méo chính nghĩa của các cuộc đấu tranh, ông Nguyễn Tấn Dũng và lực lượng an ninh đều thấy rõ là số người dân tham gia chống lại chế độ Hà Nội ngày một gia tăng, xảy ra cùng khắp ở nhiều nơi. Những cuộc đấu tranh này rất ôn hòa, bất bạo động khiến cho công an khó có thể tìm lý cớ ngăn chận. Khi phải dùng đến biện pháp vu khống cho các buổi lễ cầu nguyện của giáo dân là “gây rối trật tự” và dở trò vũ phu đối với các vị tu hành cùng các giáo dân tay không tấc sắt, rõ ràng là Cộng sản Việt Nam đã cùng đường và đang tự quấn vào cổ mình những sợi giây oan nghiệt.

Trung Điền
Ngày 22 Tháng 8 Năm 2009


Xin đừng ném cho công an của chế độ CSVN một thắng lợi quá dễ dàng

22/08/2009

20090822-Xin dung nem cho CAViệc giới cầm quyền CSVN bắt giam các nhà dân chủ Nguyễn Tiến Trung và Trần Anh Kim mới xẩy ra cách đây không lâu đã làm mọi người ngỡ ngàng, ngỡ ngàng vì một nhà nước khiếp nhược trước ngoại bang trong vụ khai thác bô-xít tại Tây Nguyên và bỏ mặc ngư dân bị giặc Tầu bức hại tại Biển Đông lại có thể hung hãn với những đồng bào, chỉ lên tiếng bảo vệ dân quyền, đến như vậy… Điều khác làm mọi người ngạc nhiên không kém là hình ảnh mới đây trên truyền hình nhà nước của bác Trần Anh Kim, anh Nguyễn Tiến Trung, ông Trần Huỳnh Duy Thức và Ls Lê Công Định. Tất cả đều đồng loạt thú nhận đã “vi phạm pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” và mong được “hưởng khoan hồng”. Cả bốn người này đều là những người đã từng tham gia tố cáo những điều vô lý trong cái gọi là “Pháp luật nhà nước CHXHCNVN”. Thật ra thì chẳng cần nhờ sự tố cáo của họ, vô số đồng bào, và ngay cả bọn làm ra và đang núp sau loại pháp luật đó, đều thấy những vô lý của luật pháp chế độ. Nay bỗng dưng bốn người này lại nói ngược lại một sự thật mà họ đã từng bảo vệ, mà một sự thật thì đâu có thể đảo ngược dễ dàng như vậy? Những nhà tranh đấu tranh dân chủ đó cũng từng thể hiện sự can đảm khi dám công khai đối đầu với chế độ, ngay trong lòng chế độ suốt mấy năm dài. Nhưng nay chỉ trong vài tuần, thậm chí chỉ vài ngày, họ đã có những phát biểu trái ngược lại những gì họ từng tin tưởng và can đảm bảo vệ trong nhiều năm tháng. Do đó, các đoạn TV kể trên không đủ để kết luận gì về 4 nhà dân chủ này nhưng lại mở ra một sự việc sâu xa hơn…

Hiển nhiên, CSVN tưởng rằng khi họ ép được các nhà dân chủ đang bị giam giữ nói trắng thành đen, là họ đã làm nhục các nhà dân chủ, đã làm nhụt chí phong trào dân chủ Việt Nam đồng thời đề cao chế độ CS của họ… Chuyện tinh thần của phong trào dân chủ bị giảm xuống là điều có xẩy ra phần nào và cũng là bình thường trong tiến trình đấu tranh, nhưng chế độ CS không phải vì vậy mà được đề cao. Những lời gọi là thú tội và xin khoan hồng đồng loạt của các nhà dân chủ chỉ nói lên trước cả thế giới sự độc địa và đáng ghê tởm của guồng máy trấn áp con người trong chế độ độc tài CSVN.

Phong trào dân chủ Việt Nam bị ảnh hưởng như thế nào trước thủ thuật đê tiện này của công an CS tùy thuộc vào chính những người đang thực sự đấu tranh cho dân chủ. Tôi xin nhấn mạnh “những người đang thực sự đấu tranh” chứ không phải những người đứng bên lề và bỗng dưng cho mình cái quyền “đòi nợ người đi đấu tranh”. Chính những từ ngữ cay nghiệt, mỉa mai và cả trịch thượng nữa của họ vô tình là phần thưởng và khuyến khích cho các thủ thuật quỉ quyệt của chế độ. Và cũng chính những trách móc vội vã của những người đứng ngoài đã góp phần vô hiệu hóa các nhà dân chủ, đúng như công an CS muốn. Xin nhớ là TẤT CẢ các dữ kiện về sự việc này cho đến nay đều được cung cấp bởi công an CSVN, một cơ quan được chỉ đạo bởi những người mà chúng ta đều biết về mức độ gian xảo và đê hèn.

Bên cạnh phản ứng tiêu cực, trước kịch bản “nhận tội” của các nhà dân chủ sa cơ, cũng có thái độ tích cực của một số tiếng nói đấu tranh trung kiên. Tôi xin phép trích một phần bài nhận định của nhà Dân Báo Phục Hưng (tên gọi của Blogger Sphinx) về trường hợp các nhà dân chủ bị bắt như sau:

Các nhà dân chủ của chúng ta cũng vậy. Người kiên quyết, sẵn sàng chấp nhận cái chết như cha Nguyễn Văn Lý, chị Lê Thị Công Nhân chắc chắn rất đáng khâm phục và ngưỡng mộ, nhưng những người chấp nhận cúi đầu nhận tội như Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định cũng cần được chấp nhận 1 cách cảm phục. Ta bằng họ không khi ta chẳng dám làm, vì chẳng dám làm nên không dám nhận, đó là chuyện của muỗi. Họ đã dấn thân và nay cộng sản dùng gia đình, người thân của họ để uy hiếp đương nhiên họ phải xót. Nhưng còn trên thế nữa, chắc chắn họ hiểu được rằng, muốn làm gì thì trước tiên là phải sống, người chết chỉ nằm yên ăn nhang khói và nghe kinh cầu nguyện thôi, chẳng làm được gì cả đâu. Nhất là trong cái tình trạng hơn 86 triệu dân mà chưa được tới trăm người quả cảm thế này, thì tổn thất bất kỳ ai trong họ sẽ là 1 mất mát vô cùng lớn. Đừng khinh bỉ họ, đừng chửi họ hèn khi mà còn hơn 86 triệu kẻ khác hèn hơn mới khiến họ lâm vào cảnh đó, khi họ chiến đấu để cứu những kẻ còn không dám bảo vệ chính bản thân mình. Giả sử họ thực sự mệt mỏi và buông xuôi, đó cũng là quyền của họ. Họ được phép làm như thế vì chẳng kẻ quái nào trên cuộc đời này được quyền ép họ hi sinh trong khi bản thân mình không dám, chẳng bất kỳ 1 kẻ nào được cái quyền bắt người khác chết để cứu mình cả, kể cả thượng đế.

Về phần tôi, trong số các nhà dân chủ mới bị bắt và “thú tội trong tù” tôi chỉ biết trực tiếp anh Nguyễn Tiến Trung. Khi nghe Nguyễn Tiến Trung phát biểu lần đầu tiên cách đây vài năm, tôi không tin lắm vào lời nói của Trung. Nhưng về sau, gặp anh vài lần và đọc khoảng 20 lần phát biểu khác của Nguyễn Tiến Trung, tôi đã tin tưởng người thanh niên có trái tim yêu nước này. Dĩ nhiên tôi không đồng ý với những lời Nguyễn Tiến Trung mới nói trên TV của chế độ, nhưng chẳng thể nào chỉ vì một lần phát biểu trật vuột giữa tù ngục mà tôi có thể lên án một người bạn. Chẳng thể nào chỉ vì một lần phải nói điều bị ép buộc lại đủ để xóa tan 20 lần bộc bạch tâm hồn trong tự do.

Cách đây một tháng, khi ký tên vào một kiến nghị đòi tự do cho Nguyễn Tiến Trung tôi có viết thêm như sau:

Chúng ta đòi hỏi Nhà Nước CSVN phải trả tự do cho Nguyễn Tiến Trung
Vì anh chỉ tranh đấu cho những quyền căn bản của một con người văn minh
Vì anh là một tấm gương trách nhiệm và dũng cảm của tuổi trẻ Việt Nam
Vì anh là gạch nối cảm thông giữa người Việt ở trong và ngoài nước
Vì tương lai Dân Tộc sẽ tốt đẹp nếu Việt Nam có được nhiều thanh niên như Nguyễn Tiến Trung…

Bởi lẽ đó, những “lời thú tội” mới đây của Nguyễn Tiến Trung trong nhà tù chế độ, cho dù có xẩy ra năm hay bẩy lần nữa, cũng không làm tôi thay đổi quan điểm về người thanh niên thiện chí và dũng cảm này. Tôi sẽ tiếp tục đặt niềm tin nơi anh khi anh ra khỏi nhà tù CSVN.

Về phía chế độ CSVN, sự việc họ rêu rao chuyện bốn nhà dân chủ nhận tội và xin khoan hồng lên truyền hình cho thấy đầu óc của những con người vẫn đứng yên với thời Stalin và “Cải cách ruộng đất”, không mở mang thêm được chút nào sau hơn nửa thế kỷ tiến hoá của nhân loại. Dưới thời Stalin tại Liên sô, đã có biết bao nhiêu tù nhân, một khi vào tù, đã thú nhận phạm những tội tày trời mà ai cũng biết không liên hệ gì tới đời sống của họ. Tại Việt Nam, dưới thời “Cải cách ruộng đất”, người ta cũng đã thành khẩn gian dối kết tội nhau! Vì vậy mà bản tự thú của 4 nhà dân chủ được phổ biến vào ngày 19/8 đã thể hiện bản chất chế độ độc tài CSVN hơn là tâm tư thật của 4 nạn nhân. Lời thú tội về một tội danh vu vơ của 4 nạn nhân trước ông kính truyền hình của Nhà Nước CSVN, không có giá trị pháp lý để kết tội Nguyễn Anh Kim, Nguyễn Tấn Trung, Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Công Định, nhưng lại là một bằng cớ quan trọng để kết án chế độ CSVN và những kẻ đang cầm đầu chế độ này.

Tôi xin kết thúc bài nhận định này bằng lời nhắn gửi tới thân nhân của bác Trần Anh Kim, anh Nguyễn Tấn Trung, ông Trần Huỳnh Duy Thức và Ls Lê Công Định. Quý vị là những người đang bị nhiều dằn vặt và trong hoàn cảnh khó ăn khó nói. Cá nhân tôi, và tôi tin là còn rất nhiều người Việt Nam khác, cảm thông với quý vị. Tôi có thể đoan chắc là cảm tình và sự kính trọng chúng tôi dành cho người thân của quý vị trong suốt thời gian qua không thể mai một chỉ vì một lời thú tội của họ trước ống kính truyền hình trong khi họ đang bị tù đầy bởi chế độ CSVN. Tốt nhất chúng ta hãy cùng coi những lời nhận tội vô giá trị đó như không có và “Không ném cho công an CSVN một thắng lợi quá dễ dàng”!

Hoàng Cơ Định
hoangcodinh@jps.net


Tam Tòa Chỉ Là Lý Cớ

17/08/2009

20090817-Tam toa chi la coSau khi các tin tức về sự bạo hành của công an và những nhóm người được gọi là „quần chúng bức xúc“ đối với giáo dân và các linh mục tại Tam Toà được loan tải rộng rãi, khiến dư luận bắt đầu chú ý đến vấn đề này, thì nhà cầm quyền CSVN mồm loa mép dải chối bai bải rằng, không hề có chuyện bạo hành tại Tam Tòa, và thậm chí họ còn thách thức đưa ra bằng chứng.

Với bản chất dối trá, sợ sự thật và bưng bít thông tin, nhà cầm quyền Quảng Bình đã ra lệnh cho công an tịch thu tất cả máy chụp hình, điện thoại di động của những ai định chụp lại hình ảnh các cuộc hành hung giáo dân và các linh mục diễn ra tại hiện trường Tam Tòa. Chủ đích của họ là không để một tấm hình nào về vụ việc này được phát tán, và như vậy sẽ che dấu được vết tích hung đồ của công an. Các nhân chứng tại chỗ cho biết, hễ ai giơ máy chụp hình hay điện thoại di động lên chụp hình, là công an chìm và bọn đầu gấu xông vào đánh đấm và giựt đi.

Với sự chuẩn bị và ra tay như vừa kể, nhà cầm quyền Quảng Bình yên chí là sẽ chẳng có tấm hình nào thoát ra được để tố cáo hành vi bạo lực của họ. Tuy nhiên những hình ảnh về biến cố Tam Tòa, từ cái lán dựng tạm bị phá dỡ, đến hình ảnh công an sắc phục cùng bọn côn đồ bao vây giáo dân… vẫn được đưa lên mạng lưới Internet toàn cầu.

Họ quên rằng, với phương tiện hiện đại ngày nay, người ta có nhiều cách ghi nhận lại hình ảnh mà không cần phải có mặt tại chỗ, và cũng không phải chờ các phóng viên ngoại quốc làm việc này. Mỗi người dân đều có thể trở thành phóng viên của quần chúng, như một số giáo dân đã làm trong các biến cố vừa qua tại Thái Hà, Tam Tòa …

Khi những tấm hình có giá trị bằng bao nhiêu vạn lời nói được phổ biến, thì nhà cầm quyền CSVN đã không còn dám thách thức đưa ra bằng chứng nữa, mà lu loa rằng, vụ việc Tam Tòa không phải là đàn áp tôn giáo… Giáo dân Tam Tòa đã “từ bé xé ra to” khi chuyển một “vấn đề dân sự thành vấn đề tôn giáo”. Đến khi trên các mạng thông tin toàn cầu đăng tải một số hình ảnh linh mục Ngô Thế Bính thương tích đầy mình, vì bị đám côn đồ đánh hội đồng ngay trước mặt công an, thì nhà nước bảo rằng đó là „do quần chúng tự phát“, chứ „không phải do công an được điều động đến để khuyên nhủ người công giáo“.

Lm Ngô Thế Bình bị Công An chìm đánh

Lm Ngô Thế Bình bị Công An chìm đánh

Dùng gậy gộc đánh người đến trọng thương, thừa sống thiếu chết, nhất là lại đánh một vị linh mục, thì chỉ có bọn hung đồ không còn nhân tính mới làm được. Vậy mà nhà nước vẫn còn có thể nói rằng đó là sự khuyên nhủ, thì quả thật nhà nước CSVN ngoài sự tàn ác, họ còn có những cách bào chữa cực kỳ khôi hài.

 

Sau vụ công an và côn đồ bạo hành giáo dân Tam Tòa, báo chí nhà nước đã xung trận bằng một loạt bài quy chụp, cho rằng giáo dân bị xúi giục, lôi kéo về ngang nhiên đập phá, xây nhà trong khu mà nhà cầm quyền gọi là “Chứng tích tội ác chiến tranh”.

Nhà nước chiếm đoạt giáo đường của giáo dân, biến nó thành cái gọi là „chứng tích chiến tranh“, nhưng báo chí nhà nước hẳn nhiên là sẽ không bao giờ dám nhắc lại thực tế là trong chiến tranh, chính nhà nước đã biến nhiều nơi thờ tự, và chính ngôi giáo đường này thành mục tiêu chiến tranh, với những ổ cao xạ, liên thanh được đưa vào đó. Sự thực này đã được nhiều nhân chứng thuật lại, trong đó bài viết mới đây của nhà báo Bùi Tín, nguyên là đại tá quân đội nhân dân và cũng là Phó tổng biên tập báo Nhân dân, đã nêu ra khá nhiều chi tiết.… Do đó, mục tiêu của báo chí nhà nước trong việc này chỉ là để tô vẽ lại việc ngôi thánh đường bị trúng bom Mỹ, hầu khơi động sự hận thù đối với Mỹ. Dù rằng họ đã leo lẻo nói với Mỹ rằng „hãy quên đi quá khứ để hướng tới tương lai“. Bên cạnh mục tiêu khơi động hận thù được dấu dưới cái vỏ “để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ” vừa kể, là ý đồ đánh lừa dư luận rằng việc nhà nước chiếm đoạt nhà thờ Tam Toà là hợp lý, hầu hợp thức hoá sự chiếm đoạt này.

Nếu đảng và nhà nước muốn bảo tồn những „chứng tích lịch sử tội ác chiến tranh„ như họ nói, thì lẽ ra những nơi như cầu Long Biên, Bệnh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên (Hà Nội) v.v…, đều là những nơi bị bom Mỹ tàn phá nặng nề, cũng phải được đặt trong danh mục này. Tại sao chỉ riêng nhà thờ Tam Tòa mà thôi?

Nếu muốn thực lòng bảo tồn chứng tích lịch sử tội ác chiến tranh, thì đảng không nên xóa đi dấu vết những hy sinh của đồng bào và chiến sĩ Việt Nam trong trận chiến bảo vệ biên giới phía bắc từ năm 1979 đến 1986. Trái lại đảng phải xây những đài tưởng niệm thật hoành tráng tại biên giới Việt Trung . Đảng cũng không nên phá huỷ khu tưởng niệm tại núi Ba Vành, Huế; nơi đây cũng là một chứng tích tội ác trong chiến tranh, vì là mồ chôn các nạn nhân là thường dân vô tội đã bị đảng thảm sát vào Tết Mậu Thân 1968. Đảng cũng phải xây đài tưởng niệm cho mấy trăm ngàn người bị đảng giết trong cuộc cải cách ruộng đất, cũng như đài tưởng niệm các nạn nhân đã bị đảng pháo kích chết trong lúc di tản vào năm 1972 trên „Xa Lộ Máu Kinh Hoàng“; đảng cũng cần phải xây đài tưởng niệm các học sinh trường tiểu học Cai Lậy bị đảng pháo kích chết vào năm 1974… Bên cạnh đó, đảng cũng không nên tìm cách phá hủy 2 tấm bia tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam đã chết trên đường tìm tự do trên đảo Galang – Nam Dương và Bidong – Mã Lai. Vì những bia tưởng niệm đó cũng là một chứng tích lịch sử của dân tộc Việt Nam, hầu nhắc nhở các thế hệ mai sau, đừng bao giờ để cho một chế độ tàn ác cai trị đất nước để đến nỗi người dân phải đổ xô ra biển trốn chạy như vậy.

Bên trái : Nghĩa Trang Quân Sự Đức tại Normandie được nước Pháp tôn trọng, chăm sóc. Còn Nghĩa Trang Quân Đội VNCH Biên Hòa (bên phải) được nhà nước CHXHCN chăm sóc như thế nào ?

Bên trái : Nghĩa Trang Quân Sự Đức tại Normandie được nước Pháp tôn trọng, chăm sóc. Còn Nghĩa Trang Quân Đội VNCH Biên Hòa (bên phải) được nhà nước CHXHCN chăm sóc như thế nào ?

Đảng cũng nên tới Berlin, thủ đô của nước Đức thống nhất để thấy và học tập cách bảo tồn những chứng tích lịch sử chiến tranh và tội ác của con người, như Nhà thờ Tưởng niệm (Gedächtniskirche) trong đệ nhị thế chiến bị bom đồng minh phá sập nặng nề. Sau chiến tranh nước Đức đã xem nó như một chứng tích lịch sử, đồng thời là biểu tượng cho hòa bình và hòa giải. Sát bên chứng tích lịch sử này, người Đức đã xây một nhà thờ khác để giáo dân có nơi hành lễ. Tại Berlin người ta còn xây dựng một khu tưởng niệm tội ác mà Đức đã gây ra đối với dân tộc Do Thái. Đảng cũng nên tới Normandie của nước Pháp, để thấy một chứng tích lịch sử chiến tranh khác, đó là những ngôi mộ của 2 bên từng là thù địch đều được tôn trọng.

Từ giữa thập niên 80, sau khi tung ra cái gọi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì cán bộ đảng ở các cấp các ngành bắt đầu làm giàu bằng cách ăn cắp tài sản quốc gia, cướp đoạt đất đai của nông dân để xây sân golf, trung tâm giải trí du lịch. Chưa đủ, đảng còn sáng tạo thêm bằng cách khuyến khích người dân trùng tu một số đền thờ miếu mạo của tiền nhân, mà trước kia đảng đã bỏ mặc cho hoang phế rêu phong. Nhưng sự trùng tu đó không xuất phát từ thiện ý muốn bảo tồn những di tích lịch sử, mà là muốn biến những nơi đó thành chỗ du lịch, ăn chơi để kiếm tiền.

Những dữ kiện vừa nêu cho thấy chiêu bài „bảo tồn khu chứng tích lịch sử tội ác đế quốc Mỹ“ chỉ là một lý cớ để che đậy sự chiếm đoạt nhà thờ Tam Toà của các quan chức đảng tại Quảng Bình nói riêng, và là chính sách của đảng nói chung, để dần dần chiếm dụng đất đai và các cơ sở tôn giáo, như đã và đang diễn ra ở nhiều nơi trên đất nước. Mà mục đích cuối cùng chỉ là để các cán bộ đảng LÀM GIÀU mà thôi.

Nguyễn Thanh Văn


Từ 31/CP đến đôi còng kép 88

15/08/2009

20090815-Tu 31CP den LHS 88Người Việt Nam có câu “cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, ngụ ý lúc con cọp còn sống, tuy dữ tợn và mạnh mẽ, nhưng khi chết đi thì cũng chẳng còn gì, ngoài bộ da màu sắc rực rỡ dùng để trang trí. Thêm vào đó, với những “ông cọp” đã từng gây tai họa cho xóm làng, thì bộ da cọp cũng khiến người ta gợi nhớ đến nỗi hoảng hốt, kinh hoàng, những khi nó về rình rập trong làng vồ người hay gia súc tha đi…. Còn câu: “Người ta chết để tiếng”, thì “tiếng” ở đây là cả tiếng tốt và tiếng xấu. Xã hội nào cũng vậy, bên cạnh những người tốt, tiếng tăm đươc lưu danh muôn thưở, thì cũng có những người sau khi chết vẫn bị nguyền rủa muôn đời.

Trong xã hội Việt Nam hôm nay, khi nghe câu “người ta chết để tiếng”, người ta nhớ đến những “ông cọp” đã liên tục gây kinh hoàng trên đất nước suốt mấy thập niên qua, với “tiếng tăm” của họ từ các thời Cải Cách Ruộng Đất, đến các chiến dịch truy diệt văn nghệ sĩ, tư sản, ngụy quân ngụy quyền, đến các chiến dịch quản chế hành chánh, truy lùng những người phản đối Trung Quốc hiện nay. Mỗi giai đoạn kinh hoàng của dân tộc trong 75 năm qua đều có một nhân vật điển hình – hay một “ông cọp” – mà chỉ cần nhắc đến tên là người ta hình dung ra được cả cảnh tượng, âm thanh, lẫn màu sắc và mùi của giai đoạn đó. Nhắc tới Trường Chinh là nhớ ngay đến các buổi đấu tố dưới ánh đuốc leo lét, vang động tiếng cán bộ gào thét xúi giục đám đông giết người. Nhắc tới Tố Hữu là người ta nhớ ngay đến những câu thơ vong bản như “Yêu biết mấy khi con vừa biết nói, tiếng đầu lòng con gọi Stalin”; cũng như hình dung ra ngay bầu không khí cực kỳ căng thẳng, nặng nề của văn nghệ sĩ canh chừng nhau, tố giác nhau, và tàn lụi trong lao tù khổ sai, v.v…

Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có một “ông cọp” bị mang tiếng oan. Chẳng hạn như tên tuổi cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng bị dính chặt với bức công hàm công nhận “lưỡi bò” hải phận Trung Quốc bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa. Bức công hàm ngày 14/9/1958, mang chữ ký của ông Đồng và ngày nay được gọi tắt là công hàm Phạm Văn Đồng, không chỉ coi toàn vùng biển trong “bản đồ 9 vạch” thuộc về Trung Quốc mà còn thề hứa sẽ “triệt để tôn trọng” hải phận đó. Tuy nhiên, dù ký bản công hàm với tư cách thủ tướng nhà nước CSVN, nhưng đây chắc chắn không phải là quyết định riêng của ông Phạm Văn Đồng mà là ý định của Bộ Chính trị đảng CSVN với sự quyết định tối hậu của lãnh tụ tối cao vào lúc đó là ông Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn này, ông Hồ vẫn còn nắm mọi quyền sinh sát trong tay và chưa bị cánh Lê Duẫn và Lê Đức Thọ cô lập như từ đầu thập niên 60 trở đi.

Tuy nhiên, loại oan ức như vậy khá hiếm hoi. Hầu hết các “ông cọp” gây kinh hoàng trong xã hội Việt Nam sau này, đặc biệt những ông đứng đầu các chiến dịch khủng bố của chế độ trong 3 thập niên vừa qua thì chẳng oan chút nào. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến Nghị Định 31/CP ngày 14-4-1997, mang chữ ký của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt. Bất kể lý lịch sự nghiệp của ông Kiệt thế nào đi nữa thì các nhà phân tích Việt Nam lẫn quốc tế ngày nay, và có lẽ cả các sử gia độc lập trong tương lai, đều khó có thể nhắc đến tên ông mà không đề cập đến Nghị Định 31/CP và khối nạn nhân của nó.

Dù ở phần cuối đời, ông Võ Văn Kiệt có lên tiếng kêu gọi “tha thứ hòa giải vì tương lai” cách mấy đi nữa, vẫn ít ai dám tin ông hoàn toàn. Người ta khó để mà phân định được “ông Kiệt nào” đang có những lời lẽ kêu gọi đầy tính nhân bản và tinh thần dân tộc đó; một ông Kiệt đã nghỉ hưu, hồi tâm và nhận ra những sai trái, tàn ác của chế độ để nói tiếng lương tâm chân thật của mình, hay vẫn chỉ là ông Kiệt của nghị định 31/CP đang đóng kịch đạo đức. Người ta khó phân định chính xác được hai con người trong ông Kiệt, vì ông đã từng có khả năng bịt miệng lương tâm của chính mình để ký bản Nghị định 31/CP, hợp thức hóa việc giam cầm vô số nạn nhân, kể cả người bạn nối khố của ông là Nguyễn Hộ, dưới cái tên hiền lành “quản chế hành chánh”. Nói cách khác, vết bùn (nếu không nói là vết máu) 31/CP đã vĩnh viễn dính liền với tên tuổi ông Võ Văn Kiệt.

Ngày nay các lãnh tụ CSVN khôn ngoan hơn. Ít ai còn dại dột đứng tên ban hành cả một văn bản mang tính “ác ôn” cỡ 31/CP “Quản chế hành chánh” trước mắt thế giới. Các điều luật cho mục tiêu hợp pháp hóa các hành vi trấn áp được đẩy sang một tập thể bình phong lớn hơn, gọi là Quốc Hội, và được vùi vào giữa vài trăm điều luật vô tư khác, gọi là Bộ Luật Hình Sự. Tuy nhiên, không phải vì thế mà những lệnh bắt người trong 3 năm qua không để lại những dấu ấn rõ rệt cho người đời đối với nhân vật ký những lệnh bắt đó. Trước mắt công luận, ông Nguyễn Tấn Dũng, tác giả của những lệnh bắt bớ vừa kể, đang càng lúc càng gắn chặt tên tuổi của mình với điều luật hình sự 88 (LHS 88); mà với hình dạng của 2 số 8, luật nay còn được gọi là bộ còng đôi cho cả 2 tay và 2 chân nạn nhân. Và khi các nguồn tin về món tiền hối lộ khổng lồ, mà hệ thống làm ăn của gia đình ông nhận từ Bắc Kinh ngày càng lan rộng, người ta càng nhận diện rõ hơn những động cơ phía sau khiến ông phải gấp rút bịt miệng cả những người biết chuyện và những người dám đưa tin, bằng vũ khí có tên LHS 88.

Không chỉ trong mắt người Việt, mà trong cả hồ sơ của các chính phủ tự do và các tổ chức nhân quyền quốc tế, hình ảnh Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đang ngày càng xấu đi so với thời điểm ông mới nhậm chức. Một trong những lý do chính là vì LHS 88 đang hiện nguyên hình là một vũ khí của chế độ, thay thế cho Nghị Định 31/CP, một văn bản mà thế giới quá nhờm tởm, lên án, khiến Hà Nội buộc phải hủy bỏ năm 2006.

Như vậy, LHS 88 giống và khác nghị định 31/CP ở chỗ nào?

Trước hết, một cách tóm tắt, Nghị Định 31/CP, dài 4 chương 28 điều, cho phép các quan chức cầm quyền từ cấp phường xã lập hồ sơ và cấp tỉnh có quyền giam giữ tại gia hay đưa đi vùng khác bất cứ ai mà nhà nước cho là có hại cho chế độ, mà không cần đi qua sự xét xử nào. Mỗi quyết định “quản chế hành chánh” có thể kéo dài tới 2 năm và có thể gia hạn vô số lần.

Trong khi đó, LHS 88 qui định về Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên văn như sau:

  1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
    • Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
    • Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
    • Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.

Về góc độ tùy tiện

Một lý do rất quái dị được viện dẫn để biện minh cho 31/CP là vì “các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến an ninh quốc gia, đuợc quy định tại chương 1 phần các tội phạm của Bộ Luật Hình Sự nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự“. Khó có ai giải thích được những hành động như thế nào là hành động đã bị liệt vào loại xâm phạm đến an ninh quốc gia, mà lại chưa đến mức nghiêm trọng đủ để đưa ra tòa. Và lại càng khó hiểu hơn, khi người vi phạm chưa đủ nghiêm trọng, lại bị giam vô hạn định theo 31/CP, thay vì đưa ra tòa để bị phạt có hạn định theo luật hình sự?! Điều này chẳng khác nào cách giải thích lấp liếm nhập nhằng “đi cải tạo là đi học tập chứ không phải là bị tù”, dù rằng trên thực tế thì cải tạo và tù có án cùng ở chung các phòng giam, cùng phải chịu đựng các chế độ của nhà tù; điều khác biệt là tù có án thì có thời hạn, còn “đi cải tạo” thì tha hồ gia hạn. Nhưng dù gì đi nữa thì đó vẫn là lý do để giao việc phát hiện, lập hồ sơ và quản chế cho các quan chức địa phương từ cấp thấp nhất là phường xã, và thế là cánh cửa khổng lồ mở ra cho cơn lũ của tùy tiện và lạm dụng bùng túa ra. Những đụng chạm cá nhân, tranh giành quyền lợi vì vậy mà dễ biến thành lý do mở hồ sơ “quản chế hành chánh”. Và những “hồ sơ quản chế” này cũng nhanh chóng trở thành những phong bì nhận tiền “chuộc tội” từ các nạn nhân. Trong suốt 10 năm từ 1997 đến 2006, vô số công dân vô tội đã trở thành nạn nhân của 31/CP. Phải nói là “vô số” vì không ai còn có thể đếm được khi mức lạm dụng đã xuống đến cấp phường xã trên cả nước.

Trong khi đó, LHS 88 tuy vẫn mở ra cho công an cấp phường xã quyền bắt bớ, nhưng phải đi qua hệ thống xét xử. Tuy nhiên, cánh cửa của tùy tiện và lạm dụng vẫn mở rộng từ 2 góc khác. Đó là hành vi thế nào thì đủ qui kết là “chống lại”, và hành vi đó đụng đến cấp quan chức hay ban ngành nào thì đủ để xem đó là “Nhà Nước CHXHCNVN”.

  • Khi giáo dân cùng nhau phản đối một quyết định cướp đất bất công của một quan chức chế độ thì họ đang thực thi quyền hiến định, hay đang “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN”?
  • Khi dân chúng truyền cho nhau những lời phê phán làng báo “công cụ” quá nhút nhát trong lề phải, không dám phanh phui nạn tham nhũng ở thượng tầng lãnh đạo Đảng, thì đó có phải là “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN” không?
  • Tất cả mọi bài nhận xét, phân tích các bộ phận Nhà Nước không hoàn thành nhiệm vụ hoặc làm sai nhiệm vụ, như hải quân không được cho phép ra khơi bảo vệ ngư dân, công an đã không dẹp lại còn sử dụng băng đảng xã hội đen, thủ tướng lại đi ký công hàm xác nhận đảo Việt là đất Tàu, v.v… có bị xem là “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN” không?
  • Khi người dân lên tiếng chỉ ra việc thủ tướng không tuân thủ chính luật lệ của chế độ và tạo tác hại lên hàng triệu người tại Tây Nguyên, chỉ ra việc ký hiệp ước biên giới với một nước khác mà lại không cho “những người chủ” của đất nước biết bản đồ ký kết, là phạm pháp, v.v… thì có phải là “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN” không?
  • Ngay cả khi dân chúng lập lại các tuyên bố của lãnh đạo Đảng phê bình các ban ngành Nhà Nước phí phạm công quỹ, xuống cấp đạo đức, tham nhũng lan tràn, … thì họ có đang “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN” không?

Chỉ cần duyệt lại cách hành sử của lãnh đạo Đảng và Nhà Nước trong 3 năm qua và các nạn nhân đã và sắp nằm tù, thì câu trả lời cho tất cả các câu hỏi nêu trên đều là “có tội”.

Do đó, tuy khác nhau chút ít về cách thức thực hiện, nhưng về bản chất và mục tiêu thì 31/CP và LHS 88 đều như nhau và đều cố tình mở ra các cửa ngõ cho sự tùy tiện và lạm dụng của một Nhà Nước Phi Pháp Quyền.

Về hiệu năng trấn áp

Đặc điểm của 31/CP là bắt và giữ ngay tại địa phương, nên thường ít ai hay biết số phận của các nạn nhân, và số “tư thất biến thành ngục thất” trên cả nước lên đến hàng trăm ngàn, khiến các tổ chức nhân quyền quốc tế khó lòng theo dõi. Đối với các tù nhân được thế giới theo dõi và lên tiếng khiếu nại, thì 31/CP vẫn cung cấp cho nhà cầm quyền lời chối không hề “bỏ tù” nạn nhân. Trường hợp điển hình và nổi tiếng nhất về kiểu chối trâng tráo này là việc “quản chế” đức đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tại Quảng Ngãi.

Với vũ khí 31/CP, chế độ đã tấn công và bịt miệng hầu hết các tiếng nói công thẳng của thời đó: Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hộ, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu, v.v…

Hiện nay, LHS 88 vẫn cung cấp cho các nhà lãnh đạo chế độ độc tài lời chối trâng tráo: “tại Việt Nam chỉ có tù hình sự chứ không có tù chính trị” khi bị thế giới hạch hỏi, tuy cả người hỏi lẫn kẻ trả lời đều biết sự vô giá trị của tuyên bố đó.

Nhưng dù sao đi nữa với vũ khí này, chế độ lại đang bịt miệng hàng loạt các nhà dân chủ thế hệ mới: Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Phạm Hồng Sơn, Trần Quốc Hiền, Phạm Bá Hải, Huỳnh Nguyên Đạo, Lê Nguyên Sang, v.v… và sắp tới đây các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Nguyễn Mạnh Sơn, và chị Phạm Thanh Nghiên.

Do đó, về mặt hiệu năng trấn áp, LHS 88 là vũ khí tương đương với 31/CP và cùng lúc cho chế độ tấm bình phong pháp quyền để ẩn núp.

Về mức khinh tởm của thế giới

Trước hết, kiểu nói dối “không có tù chính trị” không hề che mắt được ai. Nhiều chính phủ và tổ chức nhân quyền quốc tế đã vạch trần những thực tế hiện nay. Nhà Nước đang đẻ ra đủ loại lực lượng “bảo vệ chính trị” trong mọi ban ngành, đoàn thể. Từ công an đến công xưởng, đến ngay cả các trường trung và đại học. Có người so sánh lực lượng này với loại cảnh sát tôn giáo trong mọi ngõ ngách xã hội và guồng máy cai trị của chế độ Taliban tại Afghanistan. Và khi những cán bộ bảo vệ chính trị đó bắt những người họ gọi là vi phạm, thì các nạn nhân không là tù chính trị thì là cái gì??? Nếu tại VN không có tù nhân chính trị thì đội ngũ bảo vệ chính trị dày đặc đó được dựng lên ngày một nhiều để làm gì?

Các nước từng tài trợ cho Nhà Nước CHXHCNVN cải sửa hệ thống luật pháp bao nhiêu năm nay, đặc biệt là 3 nước Bắc Âu, đã bày tỏ sự thất vọng là họ đã bị lừa, phí tiền vô ích. Họ phải đi đến kết luận không thể né tránh, đó là những người lãnh đạo CSVN không hề có thiện chí thực sự muốn có một Nhà Nước pháp quyền tại Việt Nam. Loại Nghị Định 31/CP chỉ đơn thuần được thay thế bởi những lỗ hổng cố ý như điều 79, điều 88, v.v. của Bộ Luật Hình Sự.

Nhưng có lẽ mức khinh tởm của thế giới lên đến cùng cực khi họ đọc các đoạn đạo đức giả và mâu thuẫn của chế độ trong cả 2 văn bản:

  • Nghị định 31/CP có điều khoản “Không áp dụng quản chế hành chính đối với người dưới 18 tuổi”, hay câu “Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của ngưòi bị quản chế hành chính”. Thực tế cho thấy con em thơ dại của các nạn nhân quản chế hành chính đều chịu chung số phận với cha mẹ chúng. Và hiếm có nạn nhân nào được phép đi chữa bệnh.
  • Và ngay trong bản tuyên bố khai tử Nghị Định 31/CP, Bộ Ngoại Giao CSVN vẫn cố nói bất cần người nghe về “khía cạnh nhân đạo của nghị định 31/CP, là “nó ngăn chận những hành vi dẫn tới tội phạm” và “hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng”. Thế nhưng ở cuối bản tuyên bố lại cho biết, “nay hủy bỏ 31/CP “cho phù hợp với tình hình Việt Nam và chuẩn mực quốc tế”. Như thế nghĩa là Nhà Nước Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới cùng quyết định không còn nhân đạo như trước nữa chăng?
  • LHS 88 cũng không kém phần “đạo đức” khi mở đầu Bộ Luật Hình Sự người ta được biết mục tiêu của bộ luật này bao gồm cả các chủ đích “bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”, cũng như “bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội”. Thế giới khó hiểu tại sao “tính nhân văn” của các lãnh đạo CSVN lại khác thế giới đến vậy. Và lại càng không hiểu bồi dưỡng cho công dân “ý thức làm chủ xã hội” làm gì, để rồi trừng phạt, khi họ bày tỏ ý thức ấy. Các hình phạt được ghi rất rõ ràng, mà LHS 88 là một thí dụ.

Tương lai của LHS 88

Hiển nhiên, những người lãnh đạo Đảng và Nhà Nước CHXHCNVN dư biết sự khinh tởm của thế giới và mức độ lạc hậu của bình phong luật lệ mà họ đang ẩn núp. Cụ thể là trong tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31/CP năm 2006, chính họ biết mình đang đứng dưới chuẩn mực quốc tế.

Tuy nhiên, vào gần cuối năm 2006, 31/CP chỉ được công bố hủy bỏ vì nó là điều kiện để Quốc Hội Mỹ phê chuẩn qui chế Thương Mãi Vĩnh Viễn (PNTR) cho Việt Nam, để tổng thống Mỹ chịu đến dự Hội Nghị APEC tại Hà Nội, và để Việt Nam được vào Tổ Chức Thương Mãi Thế Giới (WTO). Chính vì thế mà tuyên bố hủy bỏ 31/CP không do Bộ Công An hay Văn Phòng Chính Phủ công bố, nhưng lại do Bộ Ngoại Giao Việt Nam tung ra. Và phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ được thông báo về sự việc này trước ngày công bố chính thức 2 tuần.

Nói cách khác, chỉ khi có hứa hẹn “tiền vào”, lãnh đạo Đảng mới đủ hứng thú leo lên chuẩn mực quốc tế. Còn không thì cả dân tộc cứ đứng dưới mức loài người văn minh, không sao cả!

Liệu dân tộc ta có kiên nhẫn chờ đợt “tiền vào” kế tiếp để hy vọng lãnh đạo Đảng sẽ bỏ LHS 88, xí xóa huề với các nạn nhân, và thay vào đó một lỗ hổng với tên khác không? Hay chính chúng ta sẽ lật ngược LHS 88 để tạo tối đa vấn đề cho lãnh đạo Đảng bằng các phương cách Đấu Tranh Bất Bạo Động, để tạo đủ áp suất buộc họ phải rút lại điều luật này. Một vài việc cụ thể như:

  • Dùng chính LHS 88 để kiện các quan chức Đảng và Nhà Nước về các phát biểu, hành động “chống lại Nhà Nước CHXHCNVN” của họ. Thí dụ mọi phát biểu chung chung về tham nhũng đều có thể được xem là “xuyên tạc” và “phỉ báng chính quyền nhân dân”, “gây hoang mang trong nhân dân”. Thí dụ quan chức cho phép in cuốn Ma Chiến Hữu cũng bị kiện theo LHS 88 vì đã “làm ra văn hóa phẩm chống Nhà Nước CHXHCNVN”.
  • Đòi các đại biểu quốc hội phải định nghĩa từng từ ngữ: “xuyên tạc”, “chiến tranh tâm lý”, “hoang mang”, v.v… và định rõ loại tài liệu nào thuộc loại “có nội dung chống Nhà Nước XHCNVN”. Đây là trách nhiệm làm luật của cơ quan Lập Pháp.
  • Khởi động phong trào thảo luận tự phát ngoài luồng để góp ý với Quốc Hội khai triển LHS 88, và cùng lúc để giúp toàn dân thấy rõ sự vô lý, lạc hậu, và gian ý phía sau điều luật này.

Và sau hết, không thể để các quan chức chế độ cứ làm ác rồi lại huề cả làng. Để chấm dứt hẳn tình trạng sản xuất hết thế hệ nạn nhân này đến đời nạn nhân khác, toàn dân Việt cần bắt đầu lập hồ sơ các tội ác và ghi thật rõ từng bàn tay bạo hành, từ kẻ ký lệnh bắt đến kẻ vung roi điện vào các nạn nhân.

Nhìn tiến trình vượt thoát độc tài của các nước cùng cảnh ngộ với chúng ta trong 15 năm qua trên khắp thế giới, và nhìn lại truyền thống của dân tộc Việt cũng như mức mục nát trong lòng chế độ độc tài tại Việt Nam hôm nay, chúng ta càng cần ra sức đẩy nhanh hơn nữa đến ngày chấm dứt các văn bản làm ô nhục quốc gia như 31/CP, LHS 88 và vĩnh viễn không để cho một “ông cọp” nào khác gây kinh hoàng trên đất nước. Các “ông cọp” trước đây chỉ còn trong ký ức dân tộc với sự nguyền rủa muôn đời.

Vũ Thạch


Vừa hèn, vừa ác, vừa bất xứng

11/08/2009

20090811-Vua hen vua ac vua bat xung“Những gì Đảng và nhà nước không nói được thì các tổ chức phi chính phủ phải nói”. Đó là lời nhấn mạnh của ông Nguyễn Minh triết trong ngày đại hội Liên Hiệp các Hội Khoa Học và kỹ thuật Việt Nam, tổ chức ngày 9 tháng 4 năm 2009 tại Sài Gòn, bàn về những vấn đề liên quan đến đất nước.

Những vấn đề liên quan đến đất nước hiện nay là những vấn đề gì mà ông Triết phải nhấn mạnh rằng đảng và nhà nước của ông không nói được, đúng hơn là không dám nói? Phải chăng là việc Trung quốc xâm lấn chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam?

Hành động bá quyền ngang ngược của Trung quốc trên biển đông đã làm cho các nước vùng Á châu như Nhật bản, Phi luật Tân, Nam Dương có những phản ứng; tuy mạnh yếu khác nhau nhưng ít nhiều cũng làm cho Trung quốc phải e dè. Chỉ riêng ông Triết và bộ chính trị của ông thì im thin thít, dù Trung quốc có những hành động trắng trợn và ngang ngược xâm lấn chủ quyền Việt Nam; xâm phạm đến tính mạng và tài sản của ngư dân Việt Nam. Ngang nhiên bắt giữ ngư dân Việt Nam trong vùng lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam và công khai gọi điện thoại thẳng đến nhà của nạn nhân đòi tiền chuộc mạng.

Trước những hành động bạo ngược này của Trung quốc, lẽ ra đảng và nhà nước của ông Triết phải triệu đại sứ Trung cộng tại Việt Nam đến để mà chính thức phản đối và nếu cần thì đưa vụ việc ra các diễn đàn quốc tế, như Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, hoặc thưa ra trước Tòa án Biển tại Hamburg – Đức quốc. Nhưng đảng và nhà nước của ông Triết đã không dám làm điều đó, mà chỉ dám dùng cái loa rè Lê Dũng phát đi điệp khúc của ngày nào một cách lấy lệ mà âm thanh vừa chỉ đủ cho người dân tại Bà Đình nghe. Thậm chí còn kỵ húy nên chỉ dám dùng từ tàu lạ. Mà người dân ai cũng biết cái “lạ” đó là Tàu.

Nếu khiếp nhược trước người đồng chí anh em xỏ lá, bá quyền Trung cộng, mà không dám nói thì đã là một điều tệ hại. Nhưng còn tệ hơn nữa, Đảng và nhà nước của ông Triết lại nhắm mắt làm ngơ hoặc đôi khi tiếp tay để văn hóa tàu tràn ngập trên các hệ thống truyền thông hiện nay và buộc người dân luôn trọng thị kính cẩn thờ lạy 16 chữ vàng mà Bắc Kinh đã rao xướng.

Mới đây nữa, Tham tán Kinh tế – Thương mại của tòa Đại sứ Trung quốc tại Việt Nam là Hồ Tỏa Cẩm lên tiếng một cách trịch thượng, không dưới 3 lần đòi nhà nước CSVN phải “khuyến cáo, nhắc nhở, cảnh thị” báo VietNamNet, vì báo này đã dám cho đăng buổi thảo luận trực tuyến giữa ông Nguyễn Minh Phong, bà Phạm Chi Lan, Nhà báo Nguyễn Quang Thiều, ông Thân Đức Việt về đề tài “Giải pháp với hàng Trung Quốc chất lượng thấp”. Trước thái độ trịch thượng kể cả của tên tham tán Hồ Tỏa Cẩm, nhà nước của ông Triết chỉ biết cúi đầu hứa sẽ xem xét lại vấn đề và hứa sẽ thúc đẩy tốt quan hệ giửa 2 nước. Có phải để biến Việt Nam thành nơi cho Trung quốc bán hàng và khai thác tài nguyên hầu để phục vụ cho quyền lợi Trung quốc??

Ông Triết và đảng của ông tự nhận mình là lãnh đạo đất nước mà hèn không dám làm tròn trách nhiệm của một chánh quyền đại diện một quốc gia độc lập, không dám lên tiếng mạnh trước những hành động ngang ngược khinh thường mình của nước “lạ”. Cầm quyền bất xứng như vậy mà cứ nhất định ngồi đó để làm gì?

Có vẻ những gì liên quan đến việc “nước lạ” hà hiếp Việt Nam thì đảng và nhà nước của ông Triết không dám nói, mà chỉ dám “xúi” các tổ chức phi chính phủ nói. Nhưng thực tế hiện nay tại Việt Nam làm gì có tổ chức phi chính phủ đúng nghĩa! Mà chỉ có những người Việt Nam yêu nước từ nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, đã lên tiếng mà không cần đảng và nhà nước của ông Triết nhắc nhở, một khi có kẻ ngoại bang xâm lấn đến chủ quyền quốc gia, xâm phạm đến quyền lợi của dân tộc.

Điều mĩa mai và nghịch lý là tuy “xúi” dân nói những gì mà đảng của ông Triết không dám nói, nhưng một khi có tiếng nói nào “vượt quá” sự cho phép thì đảng tìm cách hãm lại. Như mới đây trong buổi tọa đàm về Biển Đông và Hải Đảo Việt Nam vào ngày 24 tháng 7 tại Sài Gòn, khi phần phát biểu của ông Nguyễn Quang Thắng bị cho là “vượt quá” thì người chủ tọa là linh mục Nguyễn Thái Hợp đã bị người “lạ” gọi ra vài lần, khi vào nét mặt rất căng thẳng và lo lắng. Linh mục Hợp phải chọn ví trí ngồi cạnh ông Thắng và nhắc nhở liên tục, khiến ông Thắng phải chấm dứt sớm bài tham luận còn dang dở.

Trong trường hợp không kìm hãm được tiếng nói “vượt qua” thì đảng trở nên hung ác và dở thói côn đồ, mà điển hình nạn nhân là các nhà dân chủ đã lên tiếng phản đối Trung quốc như các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Túc, Ngô Quỳnh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn, Nguyễn Mạnh Sơn, nhà báo tự do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và cô Phạm Thanh Nghiên…

Đảng muốn người khác nói những điều tế nhị mà đảng không nói được, nhưng phải nằm trong sự kiểm soát của đảng hầu không làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ ngoại giao với “nước lạ” đàn anh mà lãnh đạo đảng đang cúc cung khấu tấu.

Trong sứ mạng cúc cung tận tụy với “nước lạ” đàn anh, mới đây đảng đã nâng cấp bằng cách cho phép sự hiện diện của “người lạ” trong một số những vụ thẩm tra các nhà dân chủ VN. Điển hình cục công an A37 đã mời hai chuyên gia „an ninh lạ“ sang để xử lý thông tin trong máy vi tính của cô Quỳnh Như (Blogger Mẹ Nấm), sau khi đã sách nhiễu điều tra cô về việc mặc chiếc áo thun màu xanh lá mạ ở giữa phía trước có dòng chữ “NO Bô-xít, Hoàng Sa Trường Sa là của VN” và sau lưng có dòng chữ “Người Việt Yêu Nước SOS, giữ mầu xanh và an ninh cho Việt Nam”.

Dã tâm của “nước lạ” được thể hiện qua việc lấn đất, lấn biển, lấn kinh tế, lấn văn hóa… Nay việc làm của cục công an A37 đối với Blogger Mẹ Nấm ở trên, cho thấy đảng của ông Triết sẵn sàng tạo điều kiện cho “nước lạ” bắt đầu lấn đến những lãnh vực khác.

Đảng của ông Triết tưởng rằng càng trù dập những tiếng nói chống đối “nước lạ” thì đàn anh sẽ hài lòng và ngưng lấn lướt. Nhưng với thái độ ươn hèn này của đảng và nhà nước của ông Triết thì “nước lạ” sẽ tiếp tục lấn tới ngày càng gia tăng cường độ.

Ông Dương Danh Hy, một cựu nhân viên ngoại giao CSVN về quan hệ Việt-Trung, khi được hỏi về vấn đề quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc trước đây, đã cho biết lãnh đạo Hà Nội ngày trước vì ngây ngô khờ khạo, không hiểu biết và quá tin tưởng vào Bắc Kinh nên đã có những điều hứa trong vấn đề biển Đông với Trung quốc.

Lãnh đạo CSVN ngày trước thì như thế. Còn 15 nhân sự lãnh đạo trong bộ chính trị CSVN hôm nay ra sao?

Vừa hèn trước “nước lạ”, vừa ác với đồng bào, vừa bất xứng với nhân dân.

Liệu nhân dân Việt Nam chịu đựng tập đoàn lãnh đạo “khôn nhà dại chợ” này đến bao giờ?

Nguyễn Thanh Văn


Thấy Gì Trong Dĩa DVD Về Tân Cương Do Bắc Kinh Đưa Ra

07/08/2009

20090807-Thay Gi Trong Dia DVD Ve Tan CuongNgày 28/07/2009, bộ ngoại giao Trung Quốc gọi Đại sứ Nhật ở Bắc Kinh đến để phản đối việc Tokyo cho vị Chủ tịch Liên đoàn Uyghur hải ngoại là bà Kadeer vào Nhật. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vũ Đại Vĩ nói với Đại sứ Nhật Miyamoto rằng, Trung Quốc cực lực phản đối việc Tokyo cấp chiếu khán cho bà Kadeer vào Nhật, và yêu cầu chính phủ Nhật phải ra lịnh cấm bà Kadeer tổ chức các buổi hội họp hay thảo luận làm phân hóa sự thống nhất đất nước và tình đoàn kết dân tộc của Trung Quốc. Vũ Đại Vĩ còn đe dọa rằng, nếu Nhật không làm theo lời yêu cầu của Trung Quốc thì sự bang giao giữa hai nước sẽ trở nên căng thẳng, phong trào bài Nhật tại Trung quốc sẽ bộc phát mạnh trong tương lai rất gần, và Nhật Bản phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hậu quả này.

Cùng với sự phản đối vừa kể, Vũ Đại Vĩ còn trao cho đại sứ Nhật một dĩa DVD do Quốc vụ viện, tức phủ Thủ tướng Trung Quốc, phát hành, nội dung nói về vụ nổi loạn ở Tân Cương vừa qua. Bộ ngoại giao Trung Quốc muốn phía Nhật sẽ phân phối DVD này cho giới truyền thông Nhật, hầu người Nhật nhận ra ai là kẻ chủ mưu cuộc bạo loạn này. Đại sứ Miyamoto hứa sẽ chuyển những lời kháng nghị của Bắc Kinh cho Tokyo; tuy nhiên ông cũng cho Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc biết rằng, ở Nhật chẳng ai có quyền cấm người dân hội họp trong tinh thần ôn hoà để bàn thảo về bất cứ một vấn đề gì. Luật pháp Nhật đã quy định rõ như thế. Tuy nhận dĩa DVD, nhưng Đại sứ Miyamoto không hứa là sẽ phân phối lại cho giới truyền thông Nhật theo yêu cầu của Trung Quốc. Điều này cũng dễ hiểu, vì trên cương vị Đại sứ, ông Miyamoto không có nhiệm vụ làm theo những gì Bắc Kinh yêu cầu để tuyên truyền dùm cho Trung Quốc; trong khi cả nước Nhật hầu như ai cũng biết vụ bạo loạn ở Tân Cương vừa qua bắt nguồn từ việc Trung quốc ra tay đàn áp những cuộc biểu tình ôn hòa của người dân Uyghur.

Bắc Kinh hy vọng với áp lực của họ, Tokyo sẽ gây khó khăn cho những cuộc vận động nhân quyền cho sắc tộc Uyghur của bà Kadeer. Thế nhưng, sự việc lại trái ngược với những gì mà nhà cầm quyền Bắc Kinh mong đợi, nghĩa là chuyến đi Nhật của bà Kadeer thành công ngoài dự tưởng. Sứ quán Trung quốc ở Nhật hẳn nhiên là không vui với những diễn tiến đó, nên vào ngày 30/07/2009 họ đã mời các ký giả đến để xem trình chiếu dĩa DVD về cuộc bạo động ở Tân Cương, mà họ cho rằng bà Kadeer là chủ mưu.

DVD này dài khoảng 20 phút, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nội dung là những hình ảnh đã được chiếu trên hệ thống truyền hình của Trung Quốc được sắp xếp lại, nhưng lồng thêm mấy cuộc điện đàm của bà Kadeer với những người trong tổ chức Liên đoàn Uyghur… Sau khi xem xong, nhiều ký giả đã chất vấn Đặng Vĩ, Đệ nhất Tham tán sứ quán Trung quốc ở Tokyo, về tính cách hợp pháp trong việc Trung Quốc lén lút ghi âm các cuộc điện đàm của bà Kadeer. Đặng Vĩ tránh né trả lời trực tiếp vấn đề, và cho rằng không nên quan tâm đến nguồn cung cấp những cuộc điện đàm đó, mà hãy chú ý đến nội dung để thấy rằng không ai khác hơn là bà Kadeer đã chủ mưu cuộc bạo động, khủng bố ở Tân Cương vừa rồi.

Trong các cuộc điện đàm bị thu lén có những trao đổi tại cuộc họp qua điện thoại hôm 1 tháng 7 năm 2009 của những người trong Ban chấp hành Liên đoàn Uyghur hải ngoại; mà nội dung gồm ba điểm chính: Thứ nhất kêu gọi người Uyghur ở trong nước đừng sợ hãi nữa, mà hãy tích cực đứng lên đòi quyền sống; thứ hai kêu gọi thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của người Uyghur, và liên kết với dân tộc Tây Tạng trong tất cả các cuộc đấu tranh; và thứ ba chọn ngày 26 tháng 6 (tức là ngày hai người Uyghur bị người Hán sát hại) làm ngày liệt sĩ.

Cuộc trao đổi giữa bà Kadeer với ông Seyit Tumturk (Phó Chủ tịch Liên đoàn Uyghur hải ngoại) vào ngày 30/06/2009 cũng bị ghi âm lén. Qua đó, bà Kadeer nhấn mạnh rằng, cần phải đặc biệt lưu tâm đến sự kiện hai người Uyghur bị người Hán sát hại ở Quảng Đông, và phải tận dụng biến cố này… Cuộc điện đàm thứ ba bị thâu lén là điện thoại của bà Kadeer từ Hoa Kỳ về Urumqui (thủ phủ Tân Cương) báo cho người em trai biết rằng ngày mai (05/07/2009) sẽ có biểu tình, và khuyên người em hãy cẩn thận.

Các ký giả cũng chất vấn Đặng Vĩ về những hình ảnh biểu tình ôn hoà của người Uyghur mà họ đều thu nhận được, nhưng DVD của Trung Quốc lại dấu nhẹm những hình ảnh đó. Họ cho rằng người Uyghur biểu tình ôn hòa nhưng vẫn bị đàn áp, nên mới phát sinh bạo động. Hơn nữa, nội dung những cuộc điện đàm của bà Kadeer đều là bình thường, không hề có chủ trương bạo động hay khủng bố. Những điều bà Kadeer quan tâm chỉ là những điều bình thường và đó cũng là mối quan tâm của mọi người dân Uyghur khác.

Không những báo chí phát hành ở Nhật, mà báo chí tại nhiều nước khác cũng đều đã lên tiếng chỉ trích rất gay gắt việc nhà cầm quyền cộng sản Trung quốc đàn áp người dân Uyghur ở Tân Cương. Bị dư luận phản đối, Bắc Kinh “giận cá chém thớt”, nên ngày 1 tháng 8 họ đã ra lệnh các hãng máy bay không cho phóng viên báo chí ngoại ngữ dùng các phòng đợi (Lounge) dành cho thượng khách ở các sân bay quốc tế của Trung Quốc. Theo ghi nhận của các phóng viên nước ngoài tại Trung quốc, thì tại các sạp báo vẫn có bày bán những tờ báo ngoại ngữ, nhưng đã bị kiểm duyệt nội dung. Một số báo Hoa ngữ phát hành ở Hồng Kông vẫn không được phép lưu hành, vì trong đó có bài viết về Tân Cương không phù hợp những gì mà chính quyền Bắc Kinh công bố.

Chuyện đàn áp người dân Uyghur đã rõ như ban ngày, nhưng nhà cầm quyền Bắc Kinh vẫn cố bẻ cong sự thật. Do đó, trong việc lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam, Trung Quốc chắc chắn đã và đang ra sức nguỵ tạo ra những bằng chứng lịch sử của họ. Điều không may cho dân tộc Việt Nam là chính những người cầm quyền ở Hà Nội không những đã không dám lên tiếng phản đối, mà nhiều khi còn ủng hộ những nguỵ tạo lịch sử của Trung Quốc, đồng thời tạo điều kiện để Trung Quốc hợp thức hoá sự lấn chiếm của họ. Vì vậy, chỉ có sự can đảm lên tiếng của người Việt Nam mới bẻ gãy được những nguỵ tạo của Trung Quốc và ngăn chặn được sự thông đồng của nhà cầm quyền Hà Nội trong việc Trung Quốc gặm nhấm dần giang sơn Việt Nam.

Ngô Văn


Đã Đành Là Hèn…

06/08/2009

20090806-Da Danh La HenTháng 6 năm 2004, hiệp định vịnh Bắc Bộ được quốc hội Cộng Sản Việt Nam phê chuẩn và có hiệu lực thi hành, cùng lúc với hiệp định đánh cá chung giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các quan chức Cộng sản Việt Nam lúc đó đã không ngớt lời tán tụng cái gọi là “sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam cũng như đối với quan hệ hai nước Việt – Trung“ của hai hiệp ước này. Nhưng cũng kể từ đó thì ngày càng có nhiều ngư thuyền, ngư dân ta bị “tàu lạ” rượt đuổi, bắt bớ; bị cướp bóc ngư cụ ngư sản, thậm chí bị bắn giết ngay trên những vùng biển của đất nước mình. Đến tháng 6 năm nay, tức là 5 năm sau những lời tán tụng hồ hỡi vừa nêu trên, thì phần lớn ngư dân miền Trung Việt Nam đã không dám ra khơi đánh cá xa bờ vì sợ bị tàu Trung Quốc đâm chìm hoặc bị bắt đòi tiền chuộc.

Trước những hành vi ngang ngược và tàn bạo trong chủ trương lấn chiếm của Bắc Kinh như vừa kể, nhà cầm quyền Hà Nội đã làm gì để bảo vệ ngư dân và chủ quyền quốc gia, vốn là nhiệm vụ chính yếu của một nhà nước. Ngoài những lời tuyên bố chiếu lệ của phát ngôn viên bộ ngoại giao Lê Dũng (vốn đã bị Trung Quốc vứt vào sọt rác từ lâu), và lí nhí XIN Trung Quốc CHO ngư dân Việt Nam được đánh cá trên vùng biển của Việt Nam; họ đã chẳng làm gì cả. Thậm chí không dám dùng đến những nguyên tắc ngoại giao căn bản để chính thức phản đối, hoặc dùng đến những cơ chế quốc tế sẵn có để đa phương hoá vấn đề, hầu nếu không giải quyết được, thì ít ra cũng tìm thêm sự hậu thuẫn của những quốc gia cùng có mối lo chung về hiểm hoạ bành trướng của Trung Quốc. Tại sao Hà Nội chấp nhận im tiếng như vậy?

Hà Nội vẫn thường khoả lấp cho sự hèn hạ của họ là phải khéo léo ngoại giao, không nên chọc giận và đối chọi với sức mạnh của Trung Quốc. Khi khoả lấp như vậy, Hà Nội quên rằng trong suốt giòng lịch sử chưa bao giờ Việt Nam mạnh hơn Trung Quốc, nhưng tổ tiên Việt Nam chưa bao giờ hèn hạ, quỵ luỵ nước Tàu như hiện nay. Hơn thế nữa, trong cuộc chiến Việt Nam mấy chục năm trước, Cộng sản Việt Nam không hề mạnh hơn Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà. Thế nhưng tại sao họ vẫn quyết đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng, cho dù phải “đốt cả dãy Trường Sơn”?

Tệ hơn nữa, lãnh đạo đảng CSVN ngày nay còn cố tình xóa hoặc làm nhòa bớt đi những hy sinh của chính người Việt trong các cuộc chống quân Trung Quốc xâm lăng trong 30 năm qua. Trong trận hải chiến Trường Sa 21 năm về trước, hơn 60 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam đã nằm xuống trong lòng biển mẹ trong nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ tổ quốc. Dù rằng sau đó phía Trung Quốc đã phổ biến đủ loại tài liệu, phim ảnh trong mục đích làm nhục Hải Quân và dân tộc Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay, trong mọi tài liệu, báo cáo, sử sách; điển hình là quyển “Lịch Sử Hải Quân Nhân Dân Việt Nam 1955-2005” của Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, lãnh đạo Đảng vẫn không dám cho ghi đích danh kẻ xâm lược là Trung Quốc, mà phải đổi thành “hải quân lạ”, “đối phương”, “tàu chiến nước ngoài”,… Phải chăng, khi không xác định rõ kẻ thù, giới lãnh đạo Hà Nội đồng thời cũng không muốn xác định rõ mục tiêu bảo vệ tổ quốc của trận chiến? Hay nói cách khác, phải chăng đây là cách giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam phủ nhận sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam để làm vừa lòng quan thầy phương Bắc? Và còn nhiều thí dụ khác nữa quanh việc Hà Nội xóa đi nhiều khu mộ binh sĩ Việt Nam dọc theo biên giới Việt-Trung trong lúc Bắc Kinh cho xây đủ loại cổng tưởng niệm. Tại sao Hà Nội chấp nhận tự muối mặt như vậy?

Tương tự, trong những vụ ngư thuyền Việt Nam bị “tàu lạ” húc chìm; bị hải tặc “nước lạ” cướp bóc ngư cụ, ngư sản; bắt bớ đòi tiền chuộc bằng đồng Nhân dân Tệ của “nước lạ” v.v… đài truyền hình “nước lạ” huyênh hoang chiếu cảnh mấy chiếc “tàu lạ” to lớn hùng hổ bao vây rượt đuổi chiếc thuyền nhỏ bé đáng thương của ngư dân ta; hình ảnh ngư dân ta van lạy lính “nước lạ” (chỉ thiếu hình ảnh xác một ngư dân ta ướp đá được đưa về bến là không được họ chiếu lên)… Tức là kẻ cướp đã tự nhận họ là quân đi ăn cướp… Thế nhưng báo đài của nhà nước vẫn im thin thít. Thoang thoảng nhắc đến thì phải gọi là “tàu lạ”. Trong khi công an thì khoác lác về tài bắt “khủng bố”, như thể không cái gì tránh khỏi được sự… ”nhanh nhạy” của lực lượng an ninh; nhưng chưa bao giờ cảnh sát biển hay lực lượng phòng duyên bắt được một “tàu lạ” nào, khi mà chúng nhan nhản ở ngoài khơi để thường trực ức hiếp ngư dân ta. Trong các bài báo lớn tiếng tuyên bố công an hết lòng bảo vệ ngư dân, người ta chỉ thấy những tấm hình của các quan chức công an ĐỨNG TRÊN BỜ. Tại sao lãnh đạo Đảng lại giao việc bảo vệ ngư dân cho công an trên bộ chứ không giao cho hải quân?

Đã đành việc lãnh đạo Đảng CSVN vô cùng hèn yếu trước Trung Quốc là một điều hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng nhìn cách họ đối xử với dân tộc Việt Nam thì hầu hết các tổ chức nhân quyền và chính phủ thế giới đều phải kinh ngạc về mức độ hung bạo và ác hiểm của họ, đặc biệt là trong những vụ việc liên quan đến Trung Quốc. Công an CSVN thẳng tay đàn áp sinh viên, thanh niên khi những trái tim trẻ này biểu tình để bày tỏ lòng yêu nước. Công an theo dõi thường xuyên và bắt bớ, trù dập bất cứ ai động đến Bắc Kinh, ngay cả khi họ phản đối tại nhà riêng: Việc cô Phạm Thanh Nghiên toạ kháng tại nhà với biểu ngữ “Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam” là lập tức thành người có tội; việc cô Quỳnh Như mặc áo mang biểu hiệu yêu nước cũng bị xem là có tội; mà trong đó công an phải đặc biệt đưa hai chuyên viên Trung Quốc đến để xử lý dữ kiện trong máy vi tính của Quỳnh Như hầu…. “bảo vệ an ninh cho Việt Nam”…. Còn nhiều, nhiều nữa những dẫn chứng nhục nhã, hèn hạ tương tự. Nhưng lý do nào khiến cộng sản Việt Nam hành xử hèn hạ và đốn mạt như vậy?

Sự lên tiếng của ông Dung Danh Dy trong cuộc phỏng vấn ngày 2 tháng 7 vừa qua trên đài Á Châu Tự Do đã hé mở cho người ta thấy phần nào những nguyên nhân này.

Trong cuộc phỏng vấn này, ông Dương Danh Dy đã cho biết, lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam đã có một số điều hứa về biển Đông với Trung Quốc. Mà nguyên nhân giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đưa ra lời hứa là do họ dốt, không biết gì cả (*) (những thậm từ ’dốt’, ’không biết gì cả’ là nguyên văn lời của ông Dương Danh Dy). Ông Dương Danh Dy là một nhà ngoại giao lão thành, từng là đại sứ của Hà Nội tại Bắc kinh, cho biết thêm rằng, ông biết rất rõ những điều hứa đó, nhưng lại không tiện nói ra trong cuộc phỏng vấn vừa nêu.

Đến đây thì hẳn người ta đã hiểu vì nguyên nhân nào mà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam lại nhu nhược, hèn hạ đến thế. Sự tiết lộ cuả ông Dương Danh Dy cũng giúp giải toả phần nào những nghi vấn về sự thậm thụt ký kết các hiệp ước biên giới trên bộ và trên biển giữa Cộng Sản Việt Nam với Trung Quốc, mà giới quan sát cho rằng, có thể còn có những mật ước hoặc điều kiện gì phía sau, để đến nỗi gần 10 năm sau khi ký kết mà Hà Nội vẫn chưa đưa ra được các bản đồ liên hệ, lẽ ra phải đi kèm với các hiệp ước. Và đến đây thì người ta cũng hiểu tại sao trong khi đồng bào ngư dân đang triền miên bị Trung Quốc ức hiếp, bắt bớ, bắn giết, mà giới lãnh đạo đảng lại muối mặt liên tục sang Tàu để tươi cười ôm hôn thắm thiết các đồng chí cộng sản của họ.

Một đất nước bị một đảng độc quyền cai trị, mà thành phần lãnh đạo của đảng đó vừa nhu nhược, hèn nhát, ngây thơ với ngoại bang nhưng lại vô cùng hung tợn, ác hiểm, thủ đoạn với dân tộc, thì tương lai của nước đó như thế nào thiết tưởng đã quá rõ.

Trong cuộc toạ đàm về Biển Đông ở Sài Gòn vừa qua, Giáo sư Nguyễn Nhã đã khẩn thiết nói lên nhu cầu về sự đồng thuận dân tộc, nếu không thì viễn ảnh Việt Nam trở thành Tây Tạng hay Tân Cương chẳng chóng thì chầy sẽ trở thành hiện thực… Sự đồng thuận của mọi thành phần dân tộc cả ở trong lẫn ngoài nước trước hiểm hoạ Trung Quốc là điều đang và chắc chắn sẽ hình thành. Vấn đề còn lại là, với một đảng và nhà nước cai trị quốc gia, có thành phần lãnh đạo đang bị Trung Quốc nắm thóp, thỉnh thoảng bị Bắc Kinh bắt chẹt, bằng cách dọa dẫm sẽ công bố những điều mà do sự ngu dốt giới lãnh đạo Hà Nội đã hứa… thì liệu rằng đảng đó và nhà nước đó có đồng thuận được với dân tộc hay không? Và ngay cả khi họ hồi tâm có ý hướng muốn đồng thuận, thì liệu rằng Bắc Kinh có cho phép họ đồng thuận với dân tộc, để Việt Nam có cơ may trở nên hùng cường, làm đối thủ cản trở mộng bành trướng của họ hay không?

Trả lời nhưng câu hỏi vừa nêu, người Việt Nam sẽ thấy rất rõ ưu tiên của dân tộc là gì, để đất nước không trở thành một Tây Tạng hay Tân Cương sau này.

====

(*) Nguyên văn lời ông Dương Danh Dy: “Chúng ta có một số điều hứa. Tôi biết rất rõ những điều hứa này của ta. Ta có những điều hứa trong vấn đề Biển Đông. Cái hứa của chúng ta lúc đó thì có những nguyên nhân là do chúng ta bênh Trung Quốc, có những nguyên nhân do chúng ta dốt, chúng ta không hiểu gì cả.”. (chữ ’chúng ta’ ở đây là giới lãnh đạo đảng CSVN)

Lê Vĩnh