Kinh nghiệm toàn trị tại Trung Quốc (1/5)

08/12/2009

Lời mở đầu cho loạt bài tuyển dịch “Kinh nghiệm toàn trị tại Trung Quốc”

Bước sang năm 2006, trên hầu hết các tạp chí có liên quan tới thời cuộc, chủ đề Trung Quốc là một trọng tâm trong những bài tổng kết sinh hoạt chính trị và kinh tế thế giới năm qua. Sự nổi bật của Trung Quốc hiện nay đã gây kinh ngạc và làm rúng động toàn cầu, đồng thời kích thích các học giả tiến hành những công trình nghiên cứu sâu rộng hơn. Ðiều hầu như rất nhiều người muốn tìm biết là trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế lạ thường và liên tục của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cùng vẻ ổn định dưới chế độ toàn trị của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, tiềm ẩn những vấn đề nan giải nào, và có gây nản lòng hoặc nuôi lớn những hy vọng nào.

Liệu những thay đổi sâu xa về chính trị và kinh tế, xã hội tại Trung Quốc có thúc đẩy cuộc chuyển thể tiến tới dân chủ hóa? Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố vẫn giữ địa vị người tiền phong của giai cấp vô sản, trong khi liên kết với giới tinh hoa doanh nghiệp và kỹ thuật và tìm sự tương hợp với phát triển kinh tế thị trường, làm thế nào hóa giải các mâu thuẫn, phục hồi tính chính thống và ứng phó với các phong trào quần chúng trong cuộc đối đầu giữa các giai cấp, vốn không thể tránh khỏi và đúng theo kinh điển của Ðảng?

Trong khi đó, thực tế, người dân Trung Quốc có thật sự được được hưởng, trên một qui mô lớn, các thành quả của cuộc cải cách kinh tế? Hiện nay, phải chăng cái nhà nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc và người dân quả thật đang lâm vào tình trạng bế tắc tới độ có nguy cơ làm sụp đổ mọi thành quả kinh tế đang có được, kéo theo sự suy sụp của chế độ, hay đó chỉ là tuyên truyền của những kẻ chính thống Lêninnít trong Ðảng hay những kẻ có quan điểm chống cộng cổ điển hoặc phân biệt chủng tộc, đố kỵ, nhiều ác cảm với một nước đang trỗi lên và có khả năng trở thành siêu cường?

Bên cạnh đó, sách lược chính trị và kinh tế của Trung Quốc đối với các nước trên thế giới như thế nào, và ngược lại, các siêu cường, và đặc biệt là các nước đang phát triển phản ứng ra sao? Phải chăng, với các nước thứ hai này, Trung Quốc là một bạn hàng cần kíp, một kiểu mẫu chính trị ổn định hay một đối tác vừa được miễn cưỡng ngưỡng mộ vừa phải cực kỳ cảnh giác? Liệu “quả bong bóng kinh tế” của Trung Quốc có sắp nổ vì các vấn đề chính trị nội bộ và tham vọng bành trướng của Trung Quốc?

Qua kinh nghiệm Trung Quốc, có vấn nạn lớn và cấp bách nào đặt ra cho Việt Nam, nơi cũng có một chế độ toàn trị mà có người xem chỉ là sao chép vụng về các chính sách và tổ chức của Trung Quốc hơn một thập niên trước? Có phải Đảng Cộng sản Việt Nam, vốn tự xưng tiền phong đấu tranh cho công bằng xã hội và tự hào xung kích bảo vệ độc lập dân tộc cũng đang đánh mất chính nghĩa, do đó, góp phần chủ yếu làm mất tính chính thống của chế độ đương nhiệm? Trong tình huống ấy, liệu Việt Nam có triển vọng cũng sẽ tăng trưởng kinh tế, bình định chính trị như Trung Quốc, hay trở thành vùng ngoại biên đáp ứng đủ các yêu cầu đa dạng của Trung Quốc? Và có phải lịch sử tái diễn tấn bi kịch tự trói tay mình vì tâm thức phiên thuộc từng ám ảnh vua Tự Ðức và hầu hết triều thần?

Như thế, từ sinh hoạt chính trị muôn hình muôn vẻ của Trung Quốc, có thể rút tỉa những bài học nào cho các thành phần trong nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam còn ôm ấp ngọn lửa lý tưởng, cũng như cho người dân trong nước và hải ngoại đang thao thức về các vấn đề độc lập, tự do và phát triển đồng bộ của dân tộc Việt? Và đặc biệt, những bài học nào cho giới ưu tú trong lãnh vực văn hóa và xã hội, gồm các học giả, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ và những người hoạt động cho một xã hội dân sự đang chật vật hình thành…?

Ðể góp chút ánh sáng nhỏ nhoi và tạo thêm dịp suy nghĩ về các vấn nạn trên, hầu tự mỗi người có thể rút ra câu trả lời cho riêng mình, xin mời người đọc đi vào sáu bài viết, được nhìn từ các góc độ khác nhau và có tính hàn lâm, của sáu nhà nghiên cứu sinh hoạt chính trị và xã hội Trung Quốc đương đại.

Năm bài đầu, trích từ Tạp chí Dân Chủ (Journal of Democracy), Tập 14, số 1, tháng Giêng năm 2003. Ðây là một tạp chí của National Endowment for Democracy, Baltimore, MD, và Johns Hopkins University Press, Washington D.C., Hoa Kỳ. Từ khi ra mắt năm 1990 tới nay, Tạp chí Dân Chủ trở thành diễn đàn cho những phân tích có tính nghiên cứu và những quan điểm học thuật đối chọi nhau về dân chủ. Các bài viết của nó thường được đăng lại trên các báo The New York Times và The Wall Street Journal, được dịch ra nhiều ngôn ngữ và phổ biến rộng rãi trên nhiều tạp chí khắp thế giới.

Sở dĩ năm bài viết đầu về Trung Quốc của các tác giả Mỹ, Trung – mà phần tiểu sử sơ lược có ở cuối mỗi bài – được tuyển chọn làm thành đề tài “Kinh nghiệm toàn trị tại Trung Quốc”, vì theo ý tôi, đó là những bài viết chỉ hai tháng sau ngày Ðại hội lần thứ 16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 11.2002, trong không khí sốt dẻo hậu đại hội với sự kế thừa êm thắm của Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào và một nghị trình cập nhật hóa của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Sau năm bài ấy, mời người đọc sang bài thứ sáu, được viết đúng ba năm sau, là bài tổng kết về kinh tế, chính trị và ngoại giao của Trung Quốc đăng ở những trang đầu (10-11) của cuốn The World Almanac 2006 and Book of Facts, một loại niên giám được báo The New York Times thẩm định là sách bán chạy số một, với 80 triệu ấn bản từ trước tới nay. Bài viết này được tôi sử dụng, không khỏi có phần chủ quan, như một tổng kết và đối chiếu với luận điểm của các tác giả năm bài trước, đồng thời để lại những vấn đề tồn đọng.

Trước khi đi sâu vào từng bài, xin được giới thiệu nhan đề và tóm lược chủ đề mỗi bài:

Những giới hạn co giãn của toàn trị (The Limits of Authoritarian Resilience) của Bruce Gilley: chế độ Trung Quốc chỉ định chế hóa nền toàn trị một cách cục bộ và tạm bợ; các tiêu chuẩn có tính định chế hiện đang bị xói mòn, và tình trạng ấy có thể vẫn tiếp tục.

Ðe dọa quyền tối thượng của Ðảng (Threats to Party Supremacy) của Bruce J. Dickson: sự thích nghi của Ðảng Cộng sản Trung Quốc đối với giới tinh hoa mới của xã hội; nếu có chút nào dẫn tới chuyển thể dân chủ thì phí tổn được chi trả trên tính liên tục của chế độ.

Những vấn đề yếu ớt của nhà nước (The Problems of State Weakness) của Shaoguang Wang: nhà nước Trung Quốc rất yếu ớt so với những gì mà hầu hết người dân nhận biết; tình trạng ấy báo điềm gở cho các viễn ảnh dân chủ hóa xứ sở.

Sự bất bình đẳng mới (The New Inequality) của An Chen: sinh hoạt chính trị giai cấp là một thực tại có tầm quan trọng hơn bao giờ hết, nhưng tăng trưởng của tư bản chủ nghĩa tại Trung Quốc có vẻ không có khả năng tạo ra những sức ép để có dân chủ hóa.

Ổn định như núi lửa đang sôi (A Volcanic Stability) của Qinglian He: vẻ xuất hiện bên ngoài của nhà-nước-đảng cộng sản thì đầy sức mạnh và tự tin, thật ra, đang che đậy một tình trạng khủng hoảng sâu sắc.

Thức giấc cùng Trung Quốc (Waking to China) của Ted C. Fishman: sự thức giấc của Trung Quốc làm thế giới run sợ; thế giới cũng cần tỉnh giấc để nhận ra Trung Quốc với những sức mạnh và bất định của nó; đồng thời mỗi nước phải có phương sách ứng phó thích đáng.

Ghi chú thêm: Ðể có bản tiếng Anh, có thể tiếp cận: http:/muse.jhu.edu/journals/journal_of_democracy/toc/jod14.1.htmlhttp://www.allbookstores.com/book/0886879655

Ðể có sách của sáu tác giả, có thể tiếp cận: http://www.amazon.com/exec/obidos/subst/home/home.html/ hoặc các địa chỉ bán sách khác trên mạng.

****

Bài 1 :

Những giới hạn co giãn của toàn trị

Bruce Gilley
Nguyễn Ước dịch

Bruce Gilley

Thành công mới đây của Ðảng Cộng sản Trung Quốc trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo có thể được thông giải như một bằng chứng rằng chế độ toàn trị của Trung Quốc là độc đáo về mặt lịch sử. Hơn một thập niên sau ngày Liên bang Sô Viết và các trật tự cộng sản tại Ðông Âu sụp đổ, Đảng Cộng sản Trung Quốc không chỉ vẫn nắm quyền mà còn làm lễ tấn phong cho một tập hợp những người kế thừa trẻ hơn, được học hành tốt hơn và thậm chí tự tin hơn, làm đầu lĩnh của nó. Và Ðại hội thứ 16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng Mười một năm 2002 đánh dấu lần đầu tiên có sự chuyển giao êm thắm quyền lãnh đạo trong chế độ cộng sản mà không chút dính líu tới cái chết hoặc sự thanh trừng vị thủ lãnh sắp thôi việc.

Các nhà lý thuyết chính trị thường hiểu một cách truyền thống rằng các chế độ toàn trị thì yếu ớt, vô phương cứu chữa trong tận cốt lõi của nó, vì nó hoàn toàn thiếu sự kiểm tra về quyền lực như một sự cai trị theo luật pháp, về sự phân chia quyền lực và về khả năng tranh thủ quần chúng. Quan điểm cho rằng tính yếu ớt cố hữu của các chế độ đó sẽ, một cách không thể tránh được, trở thành rõ rệt hơn khi theo thời gian, sự cân bằng tương đối của các tài nguyên được chuyển dịch từ nhà nước tới các lực lượng xã hội tự quản, thông thường như là kết quả của nhiều hình thức phát triển một khi kinh tế tăng trưởng và mở cửa ra quốc tế. Tại những cấp độ phát triển ấy, nói chung người ta tin rằng các chế độ toàn trị thấy mình bị khổ sở vì cái có thể gọi là “lô-gic của quyền lực tập trung” – nghĩa là, cái khuynh hướng ủng hộ việc quyền lực nằm trong tay vài cá nhân hoặc bè cánh có tính cá nhân chủ nghĩa, rồi bị họ lợi dụng chí tử với những kết quả điển hình, trong đó gồm có sự cai trị tồi, suy giảm tính chính thống, tham nhũng và các tiêu chuẩn yếu kém về hạnh kiểm của giới tinh hoa cai trị (élites). [1]

Nhưng Trung Quốc – mà nhân dân của nó tiêu biểu cho khoảng một nửa phần dân số thế giới hiện không được phép chọn các nhà lãnh đạo bằng các cuộc bầu cử dân chủ – cho tới nay đã và đang thách thức kiểu mẫu truyền thống đó. Một số người thử giải thích sự kiện ấy bằng việc Đảng Cộng sản Trung Quốc tái củng cố nền tảng ngôi nhà của nó sau khi tình trạng tính chính thống của Ðảng bị sa sút tột độ sau vụ phản kháng Thiên An Môn năm 1989. Các nhà quan sát thì cãi lại rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc có vẻ đang giải quyết hữu hiệu sự thiếu hụt dân chủ bằng phương cách phi dân chủ, với việc đặt đúng chỗ các cơ chế làm giảm thiểu, hoặc có khả năng trừ khử sự yếu ớt có tính truyền thống của các chế độ toàn trị. Andrew Nathan tóm tắt bằng chứng của các cơ chế đó trong một đề mục “sự định chế hóa chế độ”.

Tôi cho rằng đặc điểm hóa như thế là sai, một vấn đề tôi sẽ tranh luận sau đây, liên quan tới ba điểm đặc trưng của các chế độ toàn trị khiến về mặt lịch sử, chúng ở trong số các chế độ khó định chế hóa nhất:

  1. quá trình đề bạt giới tinh hoa;
  2. sự bảo quản trách nhiệm về chức năng hoạt động của giới tinh hoa;
  3. sự tham sự của nhân dân.

So với tình trạng hỗn độn trong kỷ nguyên Mao Trạch Ðông thì chắc chắn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hôm nay là một nhà nước tương đối được định chế hóa. Nhưng xét theo quan hệ với các nhu cầu thật sự của xã hội Trung Quốc đương đại, thì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rõ ràng là không đạt: bất cứ điểm đặc trưng đã định nào [trong ba điểm nêu trên] của một hệ thống chính trị chỉ có thể cho là “đã được định chế hóa” khi nó phù hợp với các lý tưởng có tính tiêu chuẩn của quốc gia cũng như được thực hiện hữu hiệu. Theo những tiêu chuẩn ấy thì bằng chứng về sự định chế hóa của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa còn yếu. Cũng không có vẻ rằng cuối cùng sự định chế hóa loại đó sẽ mạnh. Quả thật, tính từ năm 1949 tới nay, có thể thấy rõ là tại Trung Quốc có ba chu kỳ củng cố và suy sụp: trước là đạt tới những giới hạn của sự định chế hóa chế độ, rồi tiếp liền đó, cái “lô-gic của quyền lực tập trung” tái khẳng định nó. Ðiều tương tự như thế có thể tái diễn vào một thời điểm thích hợp, và làm suy yếu sự định chế hóa hình thức tại Đại hội thứ 16 vừa qua của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Sự định chế hóa hiện nay

Samuel P. Huntington xác định đặc điểm của sự định chế hóa chính trị như một quá trình mà qua đó điểm đặc trưng đã định của một hệ thống chính trị đạt đủ các nét “khả năng thích ứng, tính phức tạp, tính tự quản, và tính nhất quán.” Nơi mà điểm đặc trưng có vấn đề thì có thể là một quá trình, một định chế, hoặc một lề luật. Huntington nói, khi sự định chế hóa được thành tựu từ trên xuống dưới hệ thống chính trị, thì nó tạo ra một chính quyền có “hiệu năng, thẩm quyền, [và] chính thống.” [2]

Dù định nghĩa ấy đủ để giải thích tính chất hiệu năng và tính chất thẩm quyền của chính quyền, gần như chắc chắn rằng Huntington đã quan niệm sai về bản chất cá biệt của vấn đề tính chính thống trong bối cảnh toàn trị. Ông không nắm bắt được rằng bất cứ điểm đặc trưng đã định nào của một hệ thống chính trị có tính chính thống cũng phải phù hợp với quan điểm có tính tiêu chuẩn và bao trùm của nhà nước. (Cần phải nhấn mạnh rằng, trong một nhà nước đa nguyên, điều kiện này được dễ dàng xem là tất nhiên). Nếu điểm đặc trưng đó thiếu sự chứng minh rộng rãi có tính tiêu chuẩn hóa, thì lúc đó, chính nó sẽ xói mòn tính chính thống của nhà nước. Loại “nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa” này khác với loại nhất quán mà Huntington đưa ra làm định đề vốn chỉ cốt ở sự am hiểu chức năng hoạt động giữa những người bên trong nhà nước chứ không phải sự đồng thuận trên qui mô lớn của xã hội bên ngoài.

Như thế, sự định chế hóa chính trị có cả thành tố nâng cao hiệu năng lẫn thành tố nhất quán một cách tiêu chuẩn hóa, và phải đạt được để cho điểm đặc trưng đã định ấy được định chế hóa. Như một thí dụ phủ định, những cuộc hội họp của quần chúng liên quan tới sự trông cậy thường xuyên của chế độ Trung Quốc đối với các chiến dịch chống tội phạm “Ðánh triệt để”, đã có hiệu quả đáng chú ý trong nhân nhượng hơn là kết án, nhưng những vi phạm quá trình thích đáng mà các chiến dịch ấy can dự đã trái ngược hoàn toàn với lời cam kết của chính quyền trong việc triển khai sự cai trị của luật pháp.

Bằng chứng tốt nhất về sự đề bạt giới tinh hoa có từ một cuốn sách đáng chú ý, viết bằng tiếng Hoa, nhan đề là Ðệ tứ đại (Disidai – Thế hệ thứ tư) mà nó tuyên bố một cách đáng tín nhiệm là đã dựa vào hồ sơ nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc chuyển giao quyền lãnh đạo năm 2002. [3] Thông tin chứa trong cuốn ấy bác bỏ cái bề ngoài của quá trình đề bạt có vẻ được định chuẩn hóa ấy. Nó trình bày rằng sự dễ dàng trong việc chuyển giao ấy liên quan tới di sản mạnh mẽ của bậc đại trưởng thượng Ðặng Tiểu Bình hơn là tới sự định chế hóa. Chính họ Ðặng là kẻ, ngay từ năm 1992, đã chọn Hồ Cẩm Ðào làm người thừa kế được chỉ định, gỡ khỏi đấu trường chính trị vấn đề duy nhất gây tranh cãi liên quan tới việc thừa kế. Họ Ðặng và Tống Bình, hai người đỡ đầu cho Hồ Cẩm Ðào, còn mạnh khỏe đủ lâu để bảo đảm cho họ Hồ được thừa kế. Vì thế, Ðại hội thứ 16 có vẻ là một phó sản ngẫu nhiên hơn là một kết quả có tính hệ thống.

Ði sâu vào chi tiết, Ðệ tứ đại trình bày rằng:

  1. Năm 1997, như một chiến thuật nhằm loại trừ đối thủ cấp tiến Kiều Thạch, Giang Trạch Dân đề nghị nguyên tắc không người nào từ 70 tuổi trở lên được chỉ định vào Bộ Chính trị. Họ Giang, lúc đó 71 tuổi, tự miễn cho mình nguyên tắc đó, dù trong Đại hội thứ 15 năm 2002, ông cam kết tuân theo nó. Tuy thế, từ năm 2001 cho tới ngày Ðại hội, họ Giang cho phép một số lãnh tụ quân sự, các nhà nghiên cứu của đảng và các cận thần loan truyền ý tưởng rằng ông sẽ vi phạm nguyên tắc đó thêm lần nữa để tiếp tục nắm quyền. Nỗ lực ấy thất bại, tuy thế ông thành công trong việc thanh trừng Lý Thụy Thanh, một người cấp tiến 68 tuổi, trên cơ sở cá biệt rằng họ Lý đã phục vụ quá lâu trong Ban Thường vụ, từ năm 1989. Những thách thức đối với nguyên tắc tồn tại bất thành văn và mơ hồ ấy, đã nêu lên những thắc mắc được loan truyền rộng rãi về tính lâu bền của nó.
  2. Chỉ có ba lãnh tụ thượng đỉnh – Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ – khống chế cuộc tuyển chọn ban lãnh đạo mới (với các bậc lão thành của Ðảng đã nghỉ hưu là Bạc Nhất Ba và Tống Bình đóng vai trò ảnh hưởng ở hậu trường). Sự tập trung ảnh hưởng đó trái ngược với nguyên tắc chính thức rằng những quyết định như thế phải được lập bởi 21 ủy viên Bộ Chính trị, và như thế nó tiêu biểu cho sự thất bại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc thực hiện một loại “lãnh đạo tập thể” để có thể làm giảm những nguy hiểm của sự quyền lực bị tập trung hóa trong chế độ cộng sản.
  3. Lòng trung thành cá nhân quan trọng gấp bội công trạng cá nhân. Bảy trong chín ủy viên mới của Ban Thường vụ Bộ Chính trị – Hồ Cẩm Ðào, Tăng Khánh Hồng, La Cán, Ngô Bang Quốc, Giã Thanh Lân, Hoàng Cúc và Lý Trường Xuân – được chọn dựa vào lòng trung thành có tính bè cánh dù họ là quan chức có các khuyết điểm bị nhiều người biết. [4] Chỉ có Ôn Gia Bảo và Ngô Quang Chính là được chọn chủ yếu nhờ công trạng. Trong hệ thống chính trị đa nguyên, việc chỉ định quan chức dựa vào lòng trung thành cá nhân được chấp nhận một cách tiêu chuẩn hóa và được thực hiện dễ dàng vì chính các quan chức phụ trách việc bổ nhiệm cũng sẽ được lựa chọn và bổ nhiệm bởi những kẻ do họ chọn. Nhưng vì tại Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc là kẻ nắm quyền lực không ai tranh giành, nên nó miễn cưỡng tán thành cái lý tưởng có tính tiêu chuẩn hóa là việc bổ nhiệm ở bất cứ cấp nào cũng bị buộc phải dựa vào công trạng. Tuy thế, lý tưởng ấy không được thực thi hữu hiệu, và những cuộc bổ nhiệm đành rằng là xấu thì có khả năng gây bất đồng chính kiến và phản kháng.
  4. Các nguyên tắc đề bạt thông thường trong hàng phẩm trật của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị xem thường khi chúng gây bất tiện cho hàng lãnh đạo cao cấp của Ðảng. Ðó là trường hợp cả ba cán bộ lãnh đạo cao cấp thuộc “thế hệ thứ năm” trong việc đảm trách Ban Thường vụ Bộ Chính trị năm 2012. Lý Khắc Thương đã được xác nhận là tổng bí thư của Trung ương Ðoàn liên hiệp Thanh niên Cộng sản năm 1993 dù đại bại khi tranh cử chiếc ghế ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng tại Đại hội thứ 14 năm 1992. Bạc Hi Lai được đem vào Đại hội thứ 15 năm 1997 như một “đại biểu được mời đặc biệt” sau khi thất bại trong cuộc bầu cử đại biểu đảng viên địa phương của mình. Và Tây Nhân Bình được chỉ định vào Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội thứ 15 sau khi không được bầu làm đại biểu tại Ðại hội ấy.
    • Các vấn đề kinh tế: Sự ủy quyền cho thủ tướng về các vấn đề kinh tế có thể bị thu hồi trong những phạm vi các ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị không tán thành. Thí dụ, năm 1999, Giang Trạch Dân thật sự nắm chức vụ phụ trách các công ty quốc doanh, vốn là chức vụ của Chu Dung Cơ, bằng việc triệu tập hội nghị các quan chức công ty quốc doanh từ bốn miền chính của Trung Quốc.
    • Nhân sự và tổ chức: Tầm quan trọng của chức vụ này đối với việc xếp đặt bè cánh khiến nó trở thành nguyên nhân bất đồng thường xuyên. Từ năm 1993 tới 1997, khuôn mặt khống chế vấn đề nhân sự và tổ chức là Tăng Khánh Hồng, phụ tá của họ Giang, người lúc đó thậm chí không là ủy viên Bộ Chính trị. Suốt thời kỳ ấy, Hồ Cẩm Ðào, ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị chính thức phụ trách vấn đề này, phải chấp nhận bị giẫm chân, để duy trì tính cách thừa kế của mình trong tương lai.
    • Chống tham nhũng: Việc xử lý các trường hợp tham nhũng ở cấp cao trong Ðảng vẫn là vấn đề thủ đoạn chính trị, một màn hỏa mù nhằm che đậy các cuộc đấu đá bè cánh ở cấp thượng đỉnh – nghĩa là, ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị đảm trách các nỗ lực chống tham nhũng chỉ đơn thuần là người quản lý các vụ việc được chọn bởi lý do chính trị. Sự việc ấy đã trở thành một vấn đề mọi người dân đều biết, vì lý do ấy, thậm chí một sự khởi tố xác thực và minh bạch về tham nhũng ở cấp cao là một bước lùi của Ðảng nhưng đồng thời cũng có nghĩa là một bước tiến cho tính chính thống của Ðảng.
  5. Về vấn đề chuyên môn hóa chức năng hoạt động của giới tinh hoa, Ðệ tứ đại trình bày cái nhìn thoáng qua và sơ khởi vào con số lớn lao những cuộc đấu đá nhau mang tính thư lại và phủ trùm sinh hoạt chính trị của giới lãnh đạo tại Trung Quốc. Trong khi theo truyền thống thì các ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị được chỉ định vào các chức vụ cá biệt (các vấn đề kinh tế, an ninh nội bộ, các sự vụ quốc ngoại và vân vân), sự phân chia này vẫn là đối tượng kinh niên của tránh né hoặc bất chấp – nghĩa là “tính chất tự quản” là yêu cầu của sự định chế hóa chính trị theo định nghĩa của Huntington vẫn tiếp tục bị thủ tiêu trong nhiều phạm vi quan trọng có tính chính sách.Thất bại của sự chuyên môn hóa giới tinh hoa được biểu thị trong nhiều khu vực hoạt động:
    Ðiểm đặc trưng duy nhất ở bên dưới cấp tinh hoa, có tiềm năng mạnh mẽ để làm giảm những tác động buồn thảm của tình trạng quyền lực tập trung trong các chế độ toàn trị, là sự tham gia chính trị: sự “thâm thủng dân chủ” có thể tối thiểu được bù đắp phần nào bằng sự “thặng dư tham gia”. Ðể làm bằng chứng cho sự định chế hóa đang gia tăng ở cấp dưới cấp tinh hoa, các nhà nghiên cứu kể tới các cuộc bầu cử cấp xã, việc đệ đạt thỉnh nguyện của nhân dân, và vai trò của các cơ quan lập pháp địa phương. Tuy trong các trường hợp đó, không trường hợp nào đạt hai tiêu chuẩn của sự định chế hóa – hiệu năng và nhất quán. Ðơn cử vài thí dụ nổi tiếng:

  6. Rõ ràng các cuộc bầu cử cấp xã đã chứng minh tính hiệu năng trong sự cải thiện việc cai trị tại gần một triệu xã ở Trung Quốc và thiết lập chính quyền nhà nước tại vùng nông thôn. Nhưng chúng thiếu sự nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa: Bên trong nhà nước độc đảng, sự đua tranh chính trị phải được giữ trong vòng kiểm soát chặt chẽ. Ðồng thời, duy trì sự kiểm soát ấy đôi khi có ý nghĩa là Ðảng phải vi phạm những nguyên tắc đua tranh do chính Ðảng đề ra – thí dụ, bằng các việc như vi phạm chính sách do nó đề ra trong các cuộc bầu cử cấp xã; vô hiệu hóa các kết quả bầu cử mà nó không thể chấp nhận; hoặc lén lút cấy sự kiểm soát của nó ở những xã không chịu vào khuôn phép. Việc đề ra các cuộc bầu cử ấy có thể là chiến thuật từ phía một số quan chức chính phủ cấp trung ương muốn giấu diếm dân chủ ở cửa sau, nhưng việc giấu diếm như thế chỉ có thể tiến hành ngang đây thôi, trước khi nó bắt đầu vận dụng sức ép chính xác lên trên lý tưởng cai trị có tính tiêu chuẩn hóa mà chỉ một mình Ðảng nắm quyền lực chính trị.
  7. Trong nỗ lực khẳng định vai trò “giám sát” công tác của chính quyền, các cơ quan lập pháp cấp quốc gia lẫn cấp địa phương đều phải chịu đựng cũng một loại không nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa ấy. Vì Đảng và nhà nước Trung Quốc không chấp nhận ý tưởng ủy thác quyền lực chính trị nên các cơ quan lập pháp bao giờ cũng yếu. Trong các đan cử hiếm hoi ấy, nơi mà họ cố xoay xở để, thí dụ như, từ chối một luật lệ, một sự bổ nhiệm người vào cơ quan hoặc một bản báo cáo của chính quyền thì gần như có tình trạng hoang mang buồn cười về việc mình phải làm gì đây. Không giống các cuộc bầu cử cấp xã, nơi ít ra sự ủy thác quyền lực hành chánh cũng có hiệu năng, các hội đồng nhân dân của Trung Quốc vẫn còn bị Ðảng kiểm soát rất chặt chẽ tới độ chúng hầu hết đều không hiệu năng.
  8. Cũng có một hệ thống đệ đạt thỉnh nguyện của nhân dân mà người ta có thể nói là đáp ứng yêu cầu của ý tưởng có tính tiêu chuẩn hóa đều khắp: rằng nhân dân được phép đưa đề nghị để góp phần giúp Ðảng thực hiện công tác. Vào năm 2000, một Văn phòng Quốc gia Nhận Thư thỉnh nguyện và Tiếp dân (State Bureau of Letters and Visits) mới được thành lập như một cơ quan cấp dưới bộ. Thế nhưng việc giải quyết thư thỉnh nguyện của nhân dân vẫn rất thất thường, vì quá trình cứu xét tối hậu không thật sự tùy thuộc sự xử lý thường xuyên theo quyền hành đã được ủy thác, mà đúng hơn, theo sự chấp nhận có tuyển chọn do Ðảng giám sát.

Như thế, bằng chứng hiện nay về sự định chế hóa có vẻ bị giới hạn một cách dứt khoát. Sự định chế hóa không chỉ bao gồm sự vắng mặt của hỗn độn mà còn đưa tới sự có mặt tích cực của hiệu năng và nhất quán có tính tiêu chuẩn hóa. Lúc đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển dịch từ một trạng thái hỗn độn tới một trạng thái an bình đặc biệt; nhưng chỉ tới đó thôi, không đi xa hơn. Kết quả là, các vấn đề gắn bó một cách truyền thống với các chế độ phi dân chủ – sự phi chính thống, cai trị kém cỏi, tham nhũng, sự bất ổn của giới tinh hoa – vẫn còn nhiều vô số tại Trung Quốc. Chỉ riêng tham nhũng đã được ước lượng tới con số tương đương từ 10% tới 20% tổng sản lượng quốc nội (GDP). Sự bất ổn của giới tinh hoa biểu thị rõ rệt trong những cuộc đấu đá bè cánh và ý thức hệ mà đã đặc điểm hóa những năm thời họ Giang, bao gồm việc thanh trừng không dưới sáu ủy viên Bộ Chính trị. Tất cả những cái ấy gợi cho thấy rằng các nỗ lực của Trung Quốc nhằm định chế hóa nói chung là thất bại.

Sự định chế hóa trong tương lai

Có lẽ câu hỏi đúng ra nên là, cái gì tương lai sẽ mang tới. Liệu các tiêu chuẩn được định chế hóa một cách quá yếu tại Trung Quốc có sẽ trở thành mạnh hơn, hoặc suy sụp? Nghĩa là, liệu chúng ta có thể hân hoan trông đợi giai đoạn “dân chủ hóa từng bước một” để khắc phục sự vô hiệu năng và phi nhất quán của hệ thống hiện nay?

Mọi sự củng cố có tính dân chủ đều bắt đầu từ những thay đổi mà theo định nghĩa thì chúng chưa hằn sâu, có thể được đặc điểm hóa như một thỏa ước tạm thời (modus vivendi) giữa những tay chơi thích đáng. Chỉ với thời gian thì những thay đổi ấy mới hằn sâu, mới được thấy một cách tổng quát là đáng được thừa nhận vì lợi ích của chính chúng, và như thế, chúng trở thành những tiêu chuẩn. Nhưng luôn luôn có khả năng ngược lại, cái mà tôi tin tưởng có khả năng hơn trong trường hợp Trung Quốc: rằng những diễn tiến mới sẽ suy sụp như một kết quả của “lô-gic của quyền lực tập trung.”

Thí dụ, về vấn đề đề bạt giới tinh hoa, thật dễ tưởng tượng là chắc chắn rằng theo thời gian, nguyên tắc 70 tuổi sẽ được định chế hóa hơn, tuy thế chỉ cần một hoặc hai người không đồng ý là làm hỏng cuộc mặc cả, như từng thấy trong cuộc đấu đá về kế thừa tại Đại hội Ðảng thứ 16. Tại Đại hội Ðảng thứ 17 năm 2007, La Cán, người theo đường lối cứng rắn, sẽ trên 70 tuổi, trong khi một đối thủ của Hồ Cẩm Ðào là Tăng Khánh Hồng sẽ 68. Cả hai đại điện cho các bè cánh có sức mạnh. Và khi quyền lực bị đe dọa một cách tối hậu thì sự duy trì các tiêu chuẩn bị bấp bênh – như các chế độ toàn trị trên khắp thế giới đã biểu lộ nhiều lần. Càng khư khư ôm chặt quyền lực chừng nào thì những tiêu chuẩn càng có khuynh hướng bốc hơi chừng nấy.

Ngược lại, những đề bạt dựa trên công trạng chắc chắn sẽ góp phần càng ngày càng đem thêm nhiều người có năng lực vào các cơ quan cao hơn. Nhưng tại cấp địa phương, diễn tiến đề bạt thường trở thành đút lót, trong khi ở cấp tinh hoa, diễn tiến ấy vẫn bị quyết định bởi những thất thường của các bè cánh chính trị. Việc thay đổi các mẫu thức ấy đòi hỏi một tuyến độ rộng rãi để theo dõi và giám sát qua truyền thông không bị kiểm duyệt, việc chống tham nhũng và việc ủy thác quyền lực. Trong những cái đó, có vẻ Đảng Cộng sản Trung Quốc không chọn cái nào. Việc thay đổi các mẫu thức rộng rãi hơn của tham nhũng cũng đòi hỏi những triển khai tương tự, và cũng không có khả năng tương tự.

Tới với các cuộc bầu cử cấp xã, các lãnh tụ Ðảng sẽ có khuynh hướng cảnh giác khi gặp bất cứ dấu hiệu nào của hiệu năng nơi các xã trưởng được bầu lên. Sự xuất hiện của nhiều viên chức được bầu đó – như một nhóm không có tính nhạy cảm đối với việc kết nạp hoặc việc mưu toan lật đổ – thì không thể tránh khỏi, sẽ nêu lên vấn nạn rằng không biết Ðảng có nên xét lại các tiêu chuẩn của nó để ủng hộ việc chia sẻ quyền lực chính trị hay không – và đó chính là con đường mà các chế độ toàn trị mạnh mẽ ở Ðài Loan, Nam Hàn và Thái Lan đã đi. Nhưng trong trường hợp một chế độ yếu ớt như chế độ của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì sự “tự nguyện rút lui” đó không chắc có thật. [5] Một diễn tiến có vẻ có thật hơn là, Ðảng tiếp tục vi phạm các cuộc bầu cử cấp xã khi các nhóm chính trị mới mẻ ấy bắt đầu tranh đua với sự thành công ngày càng nhiều hơn. Như Paul Brooker ghi nhận, các chế độ toàn trị đưa ra các cuộc bầu cử địa phương chân chính “có thể tối hậu sẽ đối mặt với vấn đề là phải tìm cho ra một phương cách phi dân chủ không quá lộ liễu để làm cho khập khễnh cái đảng đang đấu tranh quá thành công với đảng chính thức của mình.” [6]

Tình thế tiến thoái lưỡng nan ấy cũng giúp giải thích tại sao Đảng Cộng sản Trung Quốc, bất chấp những lời hứa được lặp đi lặp lại của nó, vẫn chưa tán trợ việc mở rộng bầu cử những người điều hành trực tiếp ở cấp cao hơn cấp xã. Những thử nghiệm rải rác việc bầu cử người cai trị cấp huyện đã bị cấp lãnh đạo Ðảng phê bình, mặc dù chúng được dân chúng tại các địa điểm ấy chấp nhận và ưa thích, và nói chung đáp ứng được cuộc khủng hoảng cai trị đang diễn ra trong vấn đề cai trị ở cấp huyện.

Về phần các hội đồng nhân dân, chắc chắn chúng cải thiện việc cai trị tại nhiều địa hạt. Nhưng thông thường chúng làm được như thế bằng việc nắm lấy quyền lực, ngược với ý kiến của Ðảng. Nơi nào chúng cải thiện được tính chính thống của chế độ thì chỉ bởi vì các thành viên của chúng được Đảng kết nạp đầy đủ. Chúng hoặc chỉ có thể cải thiện sự cai trị, hoặc chỉ có thể cải thiện sự kiểm soát của chế độ, không thể làm cả hai việc đó.

Trong mỗi trường hợp – các cuộc bầu cử cấp huyện hoặc các hội đồng nhân dân – đang bị buộc phải chọn giữa hiệu năng và nhất quán. Dường như lúc nào Ðảng cũng chọn cái thứ hai.

Các chu kỳ và suy sụp

Nhiều người viết về các chu kỳ sinh hoạt chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1949. Trong khi những ngẫu nhiên có tính con người và tính lịch sử có khuynh hướng giải thích những thời điểm rạch ròi của các chu kỳ này, thì động cơ nằm bên dưới dẫn tới sự suy sụp sau mỗi sự củng cố, nói một cách chính xác, chính là cái “lô-gic của quyền lực tập trung”: trong những thời kỳ khủng hoảng chính trị, loạn chức năng, hoặc có vấn đề kế thừa thì bất cứ quyền lực nào từng được ủy thác một cách thận trọng để cải thiện việc cai trị và ổn định giới tinh hoa chính trị đều bị thu hồi lẹ làng. Tính từ năm 1949, đại khái ta có thể thấy có bốn chu kỳ tách biệt:

  1. Thời kỳ một (1940-61):
    • Củng cố (1949-56): thiết lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
    • Suy sụp (1956-61): từ Phong trào Vận động Chống hữu khuynh tới nạn đói từ Ðại nhảy vọt.
  2. Thời kỳ 2 (1961-76):
    • Củng cố (1961-66): phục hồi sau nạn đói.
    • Suy sụp (1966-76): Cách mạng Văn hóa.
  3. Thời kỳ 3: (1976-94):
    • Củng cố (1976-86): tái củng cố, mở rộng các định chế của Ðảng và chính phủ, và luật pháp.
    • Suy sụp (1986-94): Nổi lên phong trào sinh viên phản kháng, phản ánh những nứt rạn trong giới tinh hoa về cải cách; các lãnh tụ lão thành của Ðảng tái áp đặt luật lệ.
  4. Thời kỳ 4: (1994- ):
    • Củng cố (1994- ): các lãnh tụ lão thành của Ðảng từ trần; mở rộng sự cai trị của luật pháp và chuyên môn hóa chính quyền; gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Một phân tích thoáng qua các công trình nghiên cứu trong ba chu kỳ kể trên gợi cho thấy các nhà nghiên cứu sinh hoạt chính trị của Trung Quốc đều rất có khuynh hướng thông giải rằng sự thay đổi ở từng giai đoạn thì mang tính tuyến tính. Thí dụ năm 1978 – ngay lúc bắt đầu của cái mà tôi dùng thuật ngữ Củng cố Thời kỳ Ba” – có xuất hiện một bài viết với nhan đề Hiện đại hóa và sinh hoạt chính trị kế thừa tại Trung Quốc. Bài viết ấy gây nhiều tranh luận vì đưa ra một số cảnh báo về sự bất định trong tương lai, một sự bất định mà mãi tới ngày nay mới xảy tới, trong giai đoạn Đại hội thứ 16. [7] Ngược lại, các công trình nghiên cứu sau năm 1989 có khuynh hướng mạnh mẽ nhấn mạnh sự tiếp tục suy sụp của chế độ.

Dõi theo những thăng trầm của từng giai đoạn cá biệt và so sánh chúng với các giai đoạn trước đó, người ta có thể nói rất chắc chắn về tiên đoán đó. Khi tin rằng các thời kỳ ấy không thể đảo ngược thì chính niềm tin đó ẩn chứa sự nguy hiểm; lịch sử của Trung Quốc cách riêng và lý thuyết về chế độ toàn trị nói chung gợi cho thấy rằng chúng có khả năng đảo ngược. Indonesia của Suharto có thể là một phản thí dụ tốt nhất – vào giữa thập niên 1990, chế độ đó bị tuột hết quyền lực vào lúc nó có vẻ như đang có chiều hướng đi lên và củng cố chính nó bằng những hình thức định chế hóa mới, và xem ra “chắc chắn và hiệu năng rất cao.” [8]

Nếu chúng ta đã tìm kiếm kỹ lưỡng hơn các dấu hiệu củng cố sau năm 1989 thì chúng ta nên tìm kiếm kỹ lưỡng hơn các dấu hiệu suy sụp ngày nay tại đỉnh điểm của những gì sẽ là Thời kỳ Suy sụp thứ Tư trong biểu đồ trên. Nhiều dấu hiệu trong đó có thể bao gồm sự xuất hiện của tình trạng nứt rạn ít nhiều và công khai trong các ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị về các vấn đề chính sách trọng yếu, thí dụ Ðài Loan hoặc bầu cử cấp địa phương; sự công khai xuất hiện trở lại của các lãnh tụ đang nghỉ hưu như Giang Trạch Dân hoặc Lý Bằng; hoặc Bộ Chính trị mất quyền hành trên lãnh vực hoạt động như an ninh nội bộ.

Vấn đề thời kỳ suy sụp mới có thể dẫn tới đâu thì nằm ngoài phạm vi ứng xử của trang giấy này. Nhưng một lời cảnh cáo coi như là kết luận rằng: sự suy sụp mang tính định định chế hóa đó không báo điềm sụp đổ của chế độ. Sức mạnh của bộ máy cưỡng bách của Trung Quốc – sáu triệu viên chức công an và bộ đội – hiệp với tình trạng xã hội dân sự yếu ớt đủ để đảm bảo rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không bị rớt đài hoặc bị đẩy khỏi quyền lực. Tấn thảm kịch dưới hình thức các cuộc thanh trừng chính trị và trấn áp xã hội là kết quả rất điển hình cho các thời kỳ suy sụp tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Ðồng thời có một hệ quả mang tính lựa chọn mà có thể giúp Trung Quốc thoát khỏi chu kỳ chính trị đó: sự đột phá có tính dân chủ. Sự suy sụp định chế cung cấp cơ hội – thường thì kèm theo nó là khủng hoảng cai trị – cho giới tinh hoa có khuynh hướng cải cách thiết kế sự gỡ rối cho chế độ bằng những hứa hẹn cởi mở chính trị vốn là bước đầu tiên hướng tới dân chủ. Lúc ấy, mỉa mai thay, hy vọng dân chủ nhất lại có thể nằm ngay trong chính những mâu thuẫn đang tạo ra quá nhiều trục trặc cho sự định chế hóa hiện nay.


Bruce Gilley, tiến sĩ chính trị học tại Ðại học Princeton University, Hoa Kỳ. Ông từng làm Biên tập viên hợp tác của Far Easter Economic Review (Tạp chí Kinh tế Viễn Đông). Ông tà tác giả và đồng tác giả khoảng 10 cuốn sách về Trung Quốc. Trong đó có: Tiger on the Brink: Jiang Zemin and China’s New Elite (Hổ bên mép vực: Giang Trạch Dân và giới tinh hoa của Trung Quốc, 1998); và đồng tác giả (với Adrew Nathan) cuốn China’s New Rulers: The Secret File (Các nhà cai trị mới của Trung Quốc: Hồ sơ mật, 2002); cuốn mới nhất là China’s Democratic Future: How It Will Happen and Where It Lead (Tương lai dân chủ của Trung Quốc: Sẽ xảy ra như thế nào và dẫn tới đâu, 2004).

Bản tiếng Việt © 2006 talawas

[1] Lối nói “lô-gic của quyền lực tập trung” là dựa theo câu nói của Robert Dahl về “lô-gic của sự bình đẳng” – nỗ lực hướng tới sự tham gia rộng rãi và quyền lực chính trị có tinh thần trách nhiệm mà Dahl coi đó là kết quả cố định phát xuất từ việc bắt đầu đảm đương sự bình đẳng chính trị giữa các thành viên của xã hội [đoàn, nhóm, hiệp hội…]. Xem: Dahl, On Democracy (Bàn về dân chủ), New Haven: Yale University Press, 1996, 10.

[2] Samuel P. Huntington, Political Order in Changing Societies (Trật tự chính trị trong các xã hội đang thay đổi), New Haven: Yale University Press, 1968, 12,2.

[3] Zong Hairen, Disidai (The Fourth Generation, Thế hệ thứ tư), New York: Mirror Books, 2002. Nó là nền của cuốn sách viết bằng tiếng Anh mà tôi là đồng tác giả với Andrew Nathan, China’s New Rulers: The Secret Files (Những nhà cai trị mới của Trung Quốc: Hồ sơ mật), New York: New York Review of Books, 2002. Chúng tôi trình bày tính xác thực của Disidai với đầy đủ chi tiết trong lời nói đầu của cuốn sách.

[4] Các khuyết điểm ấy được thừa nhận rõ ràng trong các tài liệu chính thức của đảng. Xem: Andrew Nathan và Bruce Gilley, China’s New Rulers, phần nói về Hồ Cẩm Ðào, tr. 68; về Ngô Bang Quốc, 102; về La Cán, 110; và về Lý Trường Xuân, 114.

[5] Tôi đưa ra một phương thuốc kéo dài diễn tiến có khả năng đột phá dân chủ trong China’s Democratic Future (Tương lai dân chủ của Trung Quốc), sắp xuất bản.

[6] Paul Brooker, Non-Democratic Regimes: Theory, Government and Politics (Các chế độ phi dân chủ: lý thuyết, chính quyền và chính trị)

[7] Kenneth Lieberthal trong Journal of International Affairs 32 Fall 1978 (Tạp chí Các Sự vụ quốc tế số 32 Mùa thu 1978), 239- 54. Bài báo ấy ghi nhận các “kết quả làm giật mình” của sự củng cố thời sau-Mao, do bởi “sự nhất trí… rất cao” của giới lãnh đạo và nỗ lực của nó để “làm cho đảng khôi phục quyền lực và năng lực trước đây.” Tuy thế, nó cảnh cáo rằng “quá sớm để nói liệu tiến trình đó có thể đảo ngược hay không”.

[8] R. William Liddle. “Indonesia: Suharto’s Tightening Grip” (Indonesia: Kềm kẹp đang siết của Suharto), Journal of Democracy 7 (October 1996), 70. Trích trong: Larry Diamond, Developing Democracy: Towards Consolidation (Phát triển dân chủ: hướng tới sự củng cố), Baltimore, John Hopkins University Press, 1999, 262


Bày trò khảo cổ ở Hoàng Sa: mưu kế sao mà vụng về

08/12/2009

Đọc bài của Hải Nam nhật báo ngày 11/11/2009 nói về các di vật tìm được trong việc “Khảo cổ ở Tây Sa” (tức Hoàng Sa của Việt Nam) nhằm khẳng định chủ quyền “không thể tranh cãi” của Trung Quốc trên quần đảo này, ai cũng phải nực cười về cái mưu mẹo quá vụng tính do các nhà chính trị nước láng giềng khoác áo “khoa học” bày đặt ra.

Như tôi đã nói trong lá thư gửi ông Tề Kiến Quốc, sự thật rành rành là từ thời vua Minh Mạng năm thứ 15 (1834) nhà vua đã có lập ra Hải đội tuần tra, ra Hoàng Sa tìm kiếm hải sản, coi giữ các đảo này và cắm bia khẳng định chủ quyền của nước Đại Nam (tức Việt Nam ngày nay). Hiện trên đảo Lý Sơn thuộc Quảng Ngãi còn nhà Âm Linh Tự 陰 靈 祀 (Tế âm hồn), để dân chúng và Triều đình tế sống các thành viên của những Hải đội Hoàng Sa trước khi xuất hành; cũng còn Mộ Gió là nơi chôn vọng những người chẳng may chết tại Hoàng Sa không đưa được thi thể trở về. Một vài nhà dân lại còn giữ được các đạo sắc có đóng ấn của Trỉều đình phong chức cho người cầm đầu Hải đội mà Bộ Ngoại Giao Việt Nam hiện đang cất giữ.

Âm Linh Tự ở đảo Lý Sơn lập từ dưới thời nhà Nguyễn. Ảnh: Thu Nguyên

Dưới thời thuộc Pháp thì ai là người canh giữ Hoàng Sa nếu không phải là những phân đội lính Pháp lúc bấy giờ đang thống trị Việt Nam chứ có bóng dáng của người Tàu nào lai vãng trên đảo đâu? Thời Việt Nam Cộng hòa cũng vậy, quân đội Việt Nam Cộng hòa thường xuyên túc trực ở đấy, mà Việt Nam Cộng hòa chính là một nửa nước của Việt Nam đang sở hữu Hoàng Sa lúc bấy giờ. Mãi đến 1974, biết thế Việt Nam Cộng hòa sẽ thua đến nơi, còn Việt Nam dân chủ cộng hòa thì lúc ấy chưa chính danh nắm giữ Hoàng Sa, lại đang dốc toàn lực vào cuộc chiến đấu nước rút cho thống nhất đất nước, nên Trung Quốc bèn lợi dụng cơ hội, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đặng Tiểu Bình mới cho huy động lực lượng hải quân mạnh hơn đối thủ, ra đánh phá tiêu diệt hải đội của Việt Nam Cộng hòa mà trắng trợn cướp lấy Hoàng Sa vào tay mình. Thế mà còn rêu rao thứ luận điệu không ai ngửi được là “phản kích tự vệ”, để rồi từ đó cứ tự mình đưa ra hết tuyên bố này đến tuyên bố khác, rằng Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) thuộc Trung Quốc là điều “không thể tranh cãi”, cốt lòe thế giới theo cái đòn tâm lý “Tăng Sâm giết người” (Tăng Sâm là người hiền nhưng khi nghe có người bịa đặt nói đi nói lại rằng Tăng Sâm giết người đến ba lần thì bà mẹ cũng giật thột, mất cả niềm tin đối với con mình phải bỏ khung cửi đứng dậy ra xem hư thực thế nào).

Đạo sắc do vua Minh Mạng ban cho Đội trưởng Hải đội Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn năm Minh Mạng thứ 15. Tờ 1

Sự thực thì Trung Quốc hãy lục trong kho thư tịch của mình mà xem có tìm được tư liệu cổ nào nói Hoàng Sa là của Trung Quốc không? Ngay cả tấm bản đồ do tướng Trung Quốc Đặng Chung vẽ cũng chỉ ghi Hoàng Sa thuộc về An Nam (tức Việt Nam) mà thôi. Tướng Đặng Chung là Tổng binh trấn thủ Quỳnh Châu (Hải Nam) thời ấy.


Đạo sắc do vua Minh Mạng ban cho Đội trưởng Hải đội Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn năm Minh Mạng thứ 15. Tờ 2

Việt Nam có đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý quốc tế về chủ quyền đối với hoàng Sa, còn Trung quốc thì không hề đưa ra được một chút chứng cứ nào ngoài cái “lưỡi bò” tự mình vẽ ra, nên các vị đứng đầu Nhà nước Trung Quốc cứ một mực thuyết phục lãnh đạo Việt Nam không nên mở rộng việc tranh chấp ra các tổ chức liên quan đến nhiều nước trong vùng, chỉ nên “giải quyết song phương” trong “nội bộ hai nước anh em” thôi. Phải chăng Trung Quốc đang cố làm cho những ai nhẹ dạ cả tin mắc vào mưu hiểm của Trung Quốc?

Nay việc cắm mốc trên bộ đã xong, âm mưu dai dẳng lấn chiếm biên giới trên bộ của Trung Quốc theo kiểu cù nhầy một phần đã đạt được. Đã đến lúc phải đàm phán phân chia ranh giới biển đảo, Trung Quốc mới tính đi trước một bước bằng cái mẹo về cuộc “khai quật khảo cổ” này và lu loa lên là “tìm thấy nhiều tư liệu văn vật Trung Quốc” tại Hoàng Sa, hòng hù dọa những kẻ nào đó trong số người Việt Nam non gan rằng đây là chuyện cũ lắm rồi, Hoàng Sa đã thuộc về lãnh thổ “thiêng liêng” (!!!) của Đại Hán từ lâu. Xin nói với các vị, cái gọi là “tư liệu văn vật” đó mang ra từ Quảng Đông hay một tỉnh nào thì có khó gì, thậm chí vác cả xương cốt ông bà cha mẹ người Trung Quốc ra đấy chôn xuống rồi đào lên mà kêu to: “Eureka, fā xiăn, fā xiăn (phát hiện, phát hiện)” cũng được kia mà. Nhưng các vị tưởng thế là thuyết phục được người ta tin đấy à? Trời ơi, cái trò trẻ vặt ấy trên trường chính trị ai mà có lạ. Chỉ cần hỏi một câu là các vị hẳn tắc tị: nếu việc khai quật khảo cổ kia là có thật thì việc gì các vị phải giấu giấu giếm giếm hơn 30 năm nay, cứ đưa ngay ra sau khi ăn sống nuốt tươi quần đảo của đất nước chúng tôi có phải bằng chứng có vẻ đã “cũ” rồi không. Rõ là nuốt miếng xương quá to nên còn nghẹn đấy. Vì thế nói dối mới không kín kẽ.

Hơn thế nữa, đào thấy mảnh vỡ gốm sứ, đồ đồng của các loại đồ gia dụng hoặc ngay cả còn nguyên đi nữa thì đâu đã vội coi nơi đào được là thuộc lãnh thổ Trung Quốc được kia chứ. Ai chẳng biết từ rất sớm, người Trung Quốc đã di cư đi khắp bốn phương trên thế giới, họ cũng bán các các đồ gia dụng của mình đi khắp bốn phương. Mà về việc buôn bán đồ gốm sứ và các hàng gia dụng thì Việt Nam cũng thế thôi. Ví thử bây giờ đào thấy trên đất Nhật Bản có đồ gốm cổ và các loại vật dụng từ xưa của Trung Quốc hay của Việt Nam thì lập tức hô lên với thế giới rằng đất Nhật Bản là thuộc quyền của Trung Quốc hay Việt Nam sao? Sao nói nghe dễ thế nhỉ!!!

Ngay trên đất Việt Nam, nếu khai quật khảo cố ở bờ Bắc sông Như Nguyệt nơi tướng Quách Quỳ nhà Tống đem quân sang đóng ở đấy, hoặc trong thành Đông Quan, nơi Tổng binh Vương Thông đặt tổng hành dinh dưới thời nhà Minh, chắc cũng có thể tìm thấy không ít mảnh vụn đồ dùng đủ loại xưa của Trung Quốc. Cả xương cốt người Tàu nữa, cứ đến gò Đống Đa mà đào hẳn tìm thấy đâu có ít. Dễ thường bấy nhiêu chứng cứ là đủ để nói với thế giới rằng địa phận sông Cầu và Hà Nội là thuộc lãnh thổ Trung Hoa?

Tóm lại, tư liệu khảo cổ không thể nào là tiêu chí để xác định chủ quyền lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào. Xin hãy thôi đi cái trò cũ mèm ấy.

Nguyễn Trọng Vĩnh
Số 23 Ngõ 5, Hoàng Tích Trí, P. Kim Liên, Q. Đống Đa, Hà Nội

Nguồn: http://bauxitevietnam.info/c/20222.html


Sự thay đổi đã đến gần

03/12/2009

“…Người Việt Nam không bao giờ chịu làm nô lệ. Người Tàu với Việt Nam hình như bao đời không ưa nhau. Dân chủ hoá, chỉ có các quan tham ở hai nước phản đối vì lo sợ mất tài sản, lo bị trả thù… Một khi lòng yêu nước trỗi dậy họ chấp nhận dân chủ hoá, thế là 100% dân Việt Nam một lòng giữ nước…”

I. Mở đầu:

Chưa bao giờ như bây giờ, số người quan tâm đến hiện tình đất nước ngày một đông, lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân.

Có thể tóm lược: hiện ta có thể chống đỡ được Trung Quốc để khỏi trở thành như Triều Tiên, Miến Điện? Có phải chúng ta đang khủng hoảng nhiều mặt, thể chế hiện hành có thể chấn chỉnh để trụ được hay phải thay đổi triệt để mới mong có sức tồn tại và vươn lên?

Mặc dù trong kỳ Đại hội vừa rồi mọi góp ý đều không được lắng nghe, mọi người vẫn kỳ vọng vào đại hội sắp tới. Thời thế thay đổi, liệu tiếng nói của dân có giá trị gì? Xin hãy chờ xem!

II. Trung Quốc và Việt Nam

a. Nỗi sợ Trung Quốc:

Dù chỉ tiếp cận sơ qua, ai cũng thấy Trung Quốc thật đáng ngưỡng mộ: người đông vô kể, đất rộng như vô tận, thiên nhiên hùng vĩ và kỳ thú, những công trình xây dựng cũ mới thì đều đồ sộ đến mức khó ngờ. Sách nhiều vô kể, nội dung hay đến mức để đời. Qua lịch sử, khi loài người còn mông muội, Trung Quốc đã có nhiều phát minh…

Mấy chục năm nay, như có chiếc đũa thần, Trung Quốc vụt lên giàu có, nhiều ngành khoa học đạt mức thế giới, quân sự bùng phát. Trung Quốc như đang thách thức, như đang tranh giành ngôi đầu bảng thế giới.

Cái sợ hãi hơn là sợ não trạng con người Trung Quốc. Xem trong chuyện cổ, nhiều nghìn năm trước đến giờ, biết bao nhiêu gương mặt gian ngoan, mưu lược. Phụ nữ lại còn ghê gớm hơn, ngay cuối thế kỷ 20 mà Giang Thanh còn mưu mô làm Vua bà nước Tàu…

Các nhà phân tích kết luận: khi nàoTrung Quốc mạnh là Trung Quốc bành trướng. Bây giờ Trung Quốc đang muốn xuống Phương Nam. Cái cửa cần mở là Việt Nam, mà Việt Nam lại là cái gai khó gỡ.

Một nhà ngoại giao kỳ cựu đã chua chát: “Trung Quốc thì gian ngoan, mưu lược, còn chúng ta thì dại dột, cả tin. Các người đi trước và bản thân tôi đã nhiều lần bị họ lừa”. Chúng ta choáng ngợp, rồi tự ti, rồi lo sợ và cuối cùng bị khuất phục. Còn có ai đó bị bẫy sập để trở thành tôi tớ, xét cũng là điều dễ hiểu.

Trong lịch sử, Trung Quốc đã từng thôn tính nhiều đất đai, nhiều dân tộc để có được tầm vóc như ngày nay. Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam 4 lần và cũng bị Việt Nam nhiều lần đánh đuổi.

Ngay gần đây, các vị cầm đầu cũng cho Trung Quốc những đòn đau nhớ đời: diệt Pôn Pốt làm tan cái tiền đồn phương Nam của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phát điên lên gọi “Việt Nam là bọn côn đồ”, doạ và thực hiện “cho Việt Nam một bài học”. Những người tham dự cuộc chiến tranh biên giới xác nhận là về mặt quân sự Việt Nam ở thế thắng. Rồi Việt Nam đuổi người Hoa. Lẽ dĩ nhiên họ ra đi không thể mang theo nhà cửa, đất đai…

Ta đăng ký thềm lục địa có nghĩa là đòi xác lập chủ quyền ở Biển Đông. Ta mua tàu bay, tàu ngầm, ta quan hệ với các nước để có liên minh quân sự…Ta chờ đón những phản ứng mãnh liệt từ phía Trung Quốc nhưng cuối cùng cũng chỉ có vài pha “tàu lạ”, vài lần Trung Quốc bắt nạt ngư dân thế cô, giữa biển khơi.

Ta sợ vì ta yếu, vì ta không có lực lượng. Lực lượng của ta là lòng dân, sức dân. Ta lại đang đối xử với dân có thể nói là tàn tệ. Chính ta tiêu diệt sức sống của bản thân ta.

“Người ta mạnh vì anh quỳ gối” – có lẽ đúng. Trung Quốc không phải muốn làm gì thì làm. Hãy thức tỉnh, hãy can đảm, hãy chấp nhận mọi giải pháp, dù thế nào miễn là giữ vững được chủ quyền đất nước.

b. Về việc giao tiếp cụ thể với Trung Quốc:

Đây không phải là phân tích, đánh giá, kết luận, chỉ là những việc xảy ra gần đây, được liệt kê để bàn soạn, chiêm nghiệm:

1. Việc bô xít Tây Nguyên: không nghe nói gì đến việc khởi động, làm con đường sắt 300 km có độ chênh 70m, làm cảng, làm kho, làm bể chứa bùn đỏ. Nếu làm, không biết 5 hay 7 năm có xong không? Thế mà hôm nay đã làm nhà máy, cái trước chưa làm, cái sau đã làm.

Liệu người ta có mang những thứ cũ kỹ thải loại sang lắp đặt tại Việt Nam rồi sau đó sản xuất theo lối thô sơ, thành phẩm chuyển về bằng đường giao thông, còn môi trường thì không quan tâm. Thành một việc đã rồi và sẽ có bô xít “thổ phỉ” Tây Nguyên như than “thổ phỉ” Quảng Ninh!

2. 1000 năm Thăng Long Hà Nội và 2010, năm hữu nghị Việt Trung: Nếu ông Đào nói nhỏ với ông Mạnh “chuyện cha ông chúng ta xung đột đã có từ lâu, nay khơi ra làm gì, nó ảnh hưởng đến 16 chữ vàng. Chi bằng làm vừa vừa thôi. Chúng ta tập trung vào làm cái “Năm hữu nghị…” thế mới là thực sự củng cố mối tình của chúng ta. Làm to vào, thiếu tiền Trung Quốc tài trợ. Chả có cách nào để ông Mạnh không chấp hành.

Trong một năm ngắn ngủi, dân Hà Nội vừa nghe tiếng voi gầm ngựa hí, vừa nghe tiếng lanh canh chạm cốc.

Biết đâu đấy, đây còn là cái “cân tiểu ly” của ông Đào để xem câu đồn đại: “Người Trung Quốc ghét người Mỹ và người Nhật nhưng ghét nhất là người Việt Nam. Còn Việt Nam ghét nhất người Trung Quốc” đúng sai đến mức nào?

3. Mở rộng Hà Nội: Nhiều người nói, không biết gì, kể cả ông chủ tịch Hội quy hoạch có người nói không có căn cứ. Có người bạo miệng: Việt Nam bị người xúi dại.

Các lãnh tụ Cộng sản đều ít nhiều mắc bệnh cuồng vĩ: Liên Xô biến sa mạc thành vườn nho, táo; Việt Nam có đường dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy “nhất” Đông Nam Á. Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp, cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối! Thế rồi người Trung Quốc đưa phong cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: “Ở đâu có dấu ấn văn hoá Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc”. Ta mất hay còn?

Không hiểu sao Myanma cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại đi vào xóm núi. Việt Nam cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại mở rộng gấp 4 lần. Hay là người ta muốn Việt Nam thiếu hụt bối rối và hỗn loạn?

4. “Hãy gác tranh chấp, hãy cùng nhau hợp tác khai thác”: Khẩu hiệu thật hay. Tôi tin là Trung Quốc đã đọc truyện Trạng Quỳnh, sẽ áp dụng mưu Trạng Quỳnh đối với bà Chúa Liễu trong chuyện bà Chúa có ruộng, Trạng Quỳnh có công trồng tỉa…Ta lấy lực đâu mà cùng khai thác? Cử ai đến cùng quản lý thì chắc một tuần là họ sẽ trở thành người Trung Quốc.

Nghĩ đến con đường huyết mạch Biển Đông với tài nguyên phong phú cũng thấy lo, cũng thấy Trung Quốc quyết liệt là dễ hiểu.

5. Việc đặt quan hệ đối tác giữa các tỉnh của hai bên biên giới: Thật là tốt đẹp! Ta rất cần việc này vì ta còn sản xuất nhỏ lẻ, việc quan hệ giữa hai tỉnh sẽ giản dị hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Có tỉnh họ còn mạnh không kém gì nước ta. Liệu Trung Quốc có âm mưu chia cắt, thâm nhập rồi thôn tính từng phần? Các tỉnh của chúng ta có sức mấy mà chống đỡ được!

6. Người ta quan tâm đến Đại hội sắp tới sôi nổi hơn nhiều so với Đại hội đã qua. Quan tâm đến nhân sự đại hội xem có ai thân Tàu, ai là người của Tàu… coi đó là cái thước đo đất nước còn mất đến đâu.

c. Biết mình biết người:

Người xưa có câu: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Người đời nay căn dặn: “Có những người sau khi gặp họ, bắt tay rồi phải xem lại tay ta có thiếu ngón nào không?”.

Việt Nam hiện nay làm việc gì cũng phải nghĩ đến Trung Quốc. Đó là một chỉ dẫn quan trọng. Đó là “biết người”. Có lẽ, mọi người Việt Nam cần đào sâu suy nghĩ: “Mình đứng cương vị gì, mình bảo vệ đất nước ra sao trước Trung Quốc?”. Còn nếu chấp nhận “nghèo thì hèn, mạnh thì được, yếu thì thua”, và hơn thế nữa “Cứu nhà hơn cứu nước! Cứu thân mình hơn cứu Chúa!”, thì coi như mất nước. Đó là “biết mình”.

III. Hãy nhìn lại mình

Ta luôn nói ta có nhiều thành tích. Nhưng nhiều năm qua ta vẫn bị xếp vào danh sách các nước nghèo nhất. Ta nên bình tĩnh xem lại chính mình. “Không nghe anh nói, hãy nhìn anh làm”.

Ta hãy có cái nhìn khái quát hiện tình trên một vài mặt:

a. Tam nông:

Trong tam nông có quá nhiều bê bối, người ta cho rằng do ta giữ quá lâu đạo luật: “đất đai là của toàn dân, do nhà nước quản lý”.

Đất đai sản xuất không có sở hữu rõ ràng, không mua, không bán được, không gom góp để đủ sản xuất lớn được, buộc phải sản xuất manh mún, kỹ thuật thô sơ, năng suất thấp, không chống được thiên tai nên vẫn đói và chán nản. Lại cộng thêm sinh đẻ không kế hoạch, giáo dục quá kém, không có tay nghề, nhân mãn và thất nghiệp tràn lan. Di cư tự do, không có việc làm, tệ nạn xã hội và phạm pháp phát sinh không ngăn nổi.

Nhiều nơi đã tự phát phá vỡ thế bí này. Phong trào “dồn điền đổi thửa” đã bước đầu đưa sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn hơn, tập trung hoá. Nhiều người nông dân góp tiền mua chung máy móc nông nghiệp. Có huyện tổ chức cho các nhóm nông dân vay tiền để mua ô tô, để đưa sản phẩm ra thành phố bán. Đã hé lộ những “ông Kim Ngọc đời mới”. Họ sẽ vứt bỏ đạo luật nói trên, rồi họ tạo ra nền sản xuất mới.

Nhiều người băn khoăn: công nghiệp hoá nông nghiệp bao nhiêu nước đã làm, có gì bí ẩn đâu sao ta không làm?

Có người tạm bằng lòng với lời giải thích: Trung Quốc chưa làm thì ta chưa làm; nông dân đông lắm, nguồn gốc của mọi biến động mà lịch sử đã ghi, phải giữ con chủ bài ruộng đất, như cái “mũ kim cô” mới mong an toàn trước họ… Nông dân làm chủ ruộng đất, những người có kỹ thuật, có vốn sẽ áp sát, đẻ ra một liên minh mới, thế thì lãnh đạo sao được?
Tình trạng này chính là nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện đội quân dân oan mất đất mất nhà ngày càng đông đảo trên phạm vi cả nước. Nguy cơ đảng mất nông dân đã là nhãn tiền.

Một hệ quả không ngờ ập tới: đất đai do nhà nước quản lý, thế là các cấp chính quyền thao túng. Đầu tư nước ngoài, đô thị hoá buộc phải có đất để phát triển. Thế là đẻ ra: thu hồi, định giá, đền bù, giải toả… Tiền nong như nước, tham nhũng trước nhỏ, sau to đến nay như bệnh không chữa nổi. Cái dây trói nông dân trở thành cái dây thít cổ các quan tham, làm điêu đứng Đảng và Nhà nước.

Hãy trả ruộng đất cho nông dân, mở đầu việc công nghiệp hoá nông nghiệp.

b. Không phát huy vai trò cá nhân, không dùng người tài, hội họp quá nhiều:

Tôi thuộc gia đình viên chức chế độ cũ, tôi lại có điều kiện tiếp xúc với bộ máy nhà nước vào các năm 1945, 1954, 1975 thế kỷ trước. Tất cả họ, ngành nào, cấp nào đều thành thạo nghiệp vụ, hiểu hết chức trách, cấp nào có bằng cấp học vị cấp ấy. Họ cũng có các thiếu sót như ta hiện nay nhưng dứt khoát là không có tình trạng: không làm được việc.

Tôi thấy qua các bước thăng trầm của đất nước: giành được độc lập, chiến tranh và xây dựng đất nước…bao giờ cũng gắn thành công hay thất bại vào một số người hay một người đứng đầu. Hiện nay ta mờ mịt: không biết việc này từ đâu đến, vì sao phải làm, luôn luôn ứng phó, luôn phải sửa sai và cũng không thiếu giấu giếm, đổ thừa.

Tôi lại thấy ở các nước, các nhà khoa học, các nhà bác học, các chuyên gia họ tập hợp theo ngành vào các tổ chức phi chính phủ. Họ theo dõi tình hình, họ tranh luận, họ đưa ra các kiến nghị, các biện pháp… Có tổ chức được nhà nước tài trợ. Ngoài ra các Viện hàn lâm, các viên nghiên cứu của các trường đại học cũng tham gia vào việc phản biện và đề xuất.

Không phải ta thiếu người để xây dựng ra bộ phận này nhưng chính là ta không biết làm, không chịu làm. Bộ phận lãnh đạo chính trị thì phe cánh, tranh chấp, không có người tài. Bộ phận khoa học kỹ thuật thì bị chèn ép. Người giỏi bị loại ra ngoài vòng, còn bị cấm đoán nên giữ miệng, kín tiếng. Còn bộ máy nhà nước thì nhiều bất cập, nhiều xấu xa, ai cũng biết.

Nguyên nhân tụt hậu đã rõ, bệnh đã định nhưng thuốc chưa có. Có lẽ phải bình tĩnh chấn chỉnh từ lãnh đạo, sao cho có người có tâm, có tầm để họ quy tụ các tài này, để họ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước.

Sao nhiều phòng họp thế? Sao người ta cứ thay đổi kiểu ghế, mỗi ngày thêm oai vệ. Hôm nay Quốc hội họp, thấy các tay ghế to quá, chiếm nhiều diện tích và phản cảm. Thế rồi hội họp liên miên, cổ cồn, cà vạt, trang trọng không biết có cái gì mới, hay là người ngồi đấy mà hồn lang thang nơi đâu?

Cũng cần xem lại câu: “Đảng bao giờ cũng đúng, tập thể bao giờ cũng sáng suốt”. Cho nên lấy việc hội họp làm chính để rồi chỉ ăn và đi họp, còn cái sáng suốt không biết tìm ở đâu!

Có lẽ ta phải thay đổi: đề cao vai trò cá nhân, con người phải được đào tạo lại, phải đánh giá khác đi, phải sử dụng khác đi… có nghĩa là tất cả phải thay đổi.

Ông cha ta nói: ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nguyễn Mạnh Tường nói: “Tập thể là cái vô nghĩa”. Bà Hồ Xuân Hương thì bốp chát hơn: “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông. Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”. Còn Xê khốp thì chế diễu: “Những cái đầu rỗng tuếch ngồi sau những bộ bàn ghế bằng gỗ bồ đào”.

c. Xây dựng kinh tế các nhóm lợi ích:

Khi mở cửa, khi đón đầu tư nước ngoài, ai cũng nghĩ rằng: ta sẽ học, ta sẽ làm, ta sẽ có tất cả như các nước, ta tiến bộ, ta thừa sức theo kịp thiên hạ… Lúc đầu ta bàn nhiều đến cái thiếu sót, cái thua thiệt, coi đó là học phí với sự an ủi thầm kín. Đến nay, cũng đã nhiều năm: hãng Sony ra đi, ta không thấy nói gì đến ngành điện tử, ta có bao nhiêu hãng ô tô mà nay không thấy cái gì gọi là ô tô Việt Nam… Hoá ra xét tiến bộ đầu tư nước ngoài lấy số tiền đầu tư để đánh giá, còn nền công nghiệp của ta là một việc khác. Kết quả: mất đất, mất môi trường, sức lao động bị bán rẻ. Trong khi ấy, đồng ruộng cần máy móc nông nghiệp, phân bón; học sinh cần máy tính, người lớn cần điện thoại di động… thì tất cả của nước ngoài.

Những cái cũ ta có: gạo, café, cao su, bao nhiêu năm nay không giải quyết được ổn thoả việc thu mua, chế biến, tồn trữ cứ vẫn như xưa. Cái ta có ưu thế tuyệt đối thì cũng không ổn định.

Những cái có mới, không ít, có thể chia ra hai loại: loại làm ra vì mục đích chính trị, nhằm khoa trương, kèm theo câu “nhất Đông Nam Á” như đường Trường Sơn, đường dây 500KV, hay như điện nguyên tử đến nay chưa có số lượng nhân lực ban đầu… Có cái khác thì thấy ai có thì học theo như Hà Nội bên Sông Hồng và Hà Nội rộng gấp 4 lần…

Loại thứ hai là thiếu hiểu biết kỹ thuật, bỏ ngoài tai ý kiến của các nhà khoa học, tự cho “chính trị là thống soái”, rồi chống cả trời đất như việc quản lí đô thị: Thành phố HCM và Hà Nội: nạn ngập lụt người ta cảnh báo bao nhiêu năm, đã thấm đòn ở thành phố HCM, đến nay lại xảy ra ở khu Mỹ Đình, nơi đỉnh cao của kiến trúc đô thị Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà không đi từ nông nghiệp, không công nghiệp hoá nông nghiệp, quy hoạch đô thị thì “treo”, không có luật nhập cư, công nghiệp hoá, xuất khẩu lao động thì bỏ rơi đào tạo nghề… Các việc này người ta làm ở Châu Âu từ thời kỳ Napoléon. Cái “Đảng bao giờ cũng sáng suốt”, “Tập thể bao giờ cũng đúng” đi đâu mất rồi? Thế mà cứ bô bô “Năm này, năm kia ta sẽ hiện đại hoá, công nghiệp hoá!”

Còn một điều vô cùng nhức nhối: làm gì cũng nói sẽ vay vốn ODA. Cứ vay rồi ai trả? Kinh tế thị trường mà không có vốn. Số nợ này là bao nhiêu? Ai biết?

Nếu chỉ có như trên thì đi một lẽ, nó lại có cái lẽ thứ hai, như rắn thêm chân:

Khi chúng ta còn bao cấp thì Philippin, Indonexia đã đi vào phát triển kinh tế. Các nhóm gọi là “nhóm lợi ích” đã ra đời. Nó là mối liên kết của những người kinh doanh, sản xuất với các người nắm quyền, họ đồng loã quyết định mọi việc, từ đó rút ruột nhà nước, chiếm đoạt tài sản quốc gia… Có khi đó là gia đình các nguyên thủ quốc gia như: Tổng thống Mác-cốt, tổng thống Su-hác-tô phải ra toà và ngồi tù là thế.

Ở ta thì những người thân quen, con cháu người cầm quyền từ TW đến cấp tỉnh đều núp bóng cha anh để làm ăn. Dân chỉ rõ công ty này là của ai, Công ty kia là của ai. Rồi những người có quyền chức ủng hộ cái này, diệt cái kia vì hối lộ… nền sản xuất bị chết từ trong trứng.

Indonexia, Philippin, Việt Nam có chung một bệnh. Philippin trước đây còn mạnh hơn ta mà nay suy thoái. Dù có nền dân chủ sơ khai mà không vực được nền kinh tế lên được.

Chưa hết, hiện nay Trung Quốc thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam, thâm nhập bằng cả quyền lực chính trị. Nếu như họ lại có trong tay các nhóm lợi ích hay là các nhóm lợi ích hai bên kết hợp với nhau thì có lẽ nền kinh tế Việt Nam đi đứt.

Việc phân tách kinh tế Việt Nam với các mô thức, chỉ số, công thức xin dành cho các kinh tế gia, chưa chắc các kinh tế gia đã làm được vì lẽ tình hình bị che giấu.

Thiếu nhìn xa trông rộng, không có quy hoạch, thiếu kiến thức, thiếu óc phân tích, không có các biện pháp phù hợp là một phía. Phía khác là nạn tham nhũng tràn lan, cùng với ý thức có quyền hành thì cứ làm, rồi che dấu, xuyên tạc, có thể là nguyên nhân của các nguyên nhân.

d. Hoàn toàn thất bại trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá:

Tôi bị bất ngờ: cùng một lúc nhiều người mà Đảng coi là tinh hoa, là tiêu biểu cho nền tư tưởng, văn hoá xã hội chủ nghĩa, đều lên tiếng phỉ báng Đảng. Có người đốt tác phẩm rồi nhịn ăn mà chết. Có người quên hết mình đã có những gì mà chỉ nhớ bài thơ, bài hát đầu đời khi chưa biết Đảng. Có người sau 30.4 gặp lại bạn văn thời xưa đã khóc mà nói là mình đã đóng kịch bao năm… Tóm lại họ tự nhân mình là “văn nô”. Trần Đức Thảo thì ra đi trong đau khổ; Nguyễn Khắc Viện thì giữ khoảng cách đầy kiêu hãnh; còn Nguyễn Mạnh Tường thì lạnh lùng rời bỏ. Họ là người được thế giới ngưỡng mộ, nhân dân yêu mến.

Triết học, văn học, nghệ thuật, các khoa học khác để lại là tác phẩm. Tác phẩm gắn với con người. Thế là ta không còn tác phẩm, không còn con người. Thế là ta mất hết.

Rồi đây các hồi ký, các di cảo của nhiều người còn nói lên nhiều nữa: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…

Cụ Tô Hoài theo Đảng, lúc Tây Bắc, lúc đồng bằng, ca ngợi Đảng hết lời, đột nhiên cho ra Ba người khác. Nếu cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để Đảng ghét cụ, cụ qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Cụ chậm chạp, Đảng vẫn mến mộ cụ. Cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo. Lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ đánh đòn “hội chợ” cụ và mọi người sẽ cười cả Đảng, cả cụ, một trận cười vỡ bụng.

Thời Pháp thuộc, 80 năm mất 20 năm bình định, gần 10 năm vì chiến tranh thế giới, dân ta chỉ có 20 triệu… Lao động tay chân, hỏi lấy gì mà người Pháp xây dựng nổi Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường xuyên Việt, đường sắt Bắc Nam vươn tới Vân Nam… Phố Tây Hà Nội thiết kế cho xe ngựa, nay ô tô như kiến, không tắc, không ngập. Nhà hát lớn, Cầu Du me, phủ Toàn quyền, các công viên, bảo tàng sau hơn 100 năm vẫn bền vững, vẫn đẹp… Đẹp mà lại hợp lý… Còn ta, cũng cao, cũng to, cũng rộng… Còn hơn các cái cũ, nhưng không gây được ấn tượng nào. Vào trong, đi, đứng, làm việc gặp nhiều bất tiện. Đó là vì, đây là một ngành khoa học không phải có tiền là cứ xây, vừa xây xong thì ngập lụt… Một nghiên cứu nói rằng: từ xa xưa, từng lớp thống trị nào cũng xây dựng các công trình đồ sộ, coi như biểu tượng của chế độ. Ta có thể cũng ở vào tình thế này. Các tỉnh, huyện, các ngành nào của ta cũng có não trạng này. Kết luận này có cơ sở ở chỗ, người ta coi hình thức hơn nội dung, coi nhà cửa, phòng họp, hội trường quan trọng hơn con người. Con người không cập nhật với nhiệm vụ, với trách nhiệm. “Quan trí” cần phải nâng cao là lời nói cửa miệng của người dân.

Gần đây rầm rộ lên cái gọi là cấm phản biện công khai, rồi quản chặt báo chí. Người ta kêu trời vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Vấn đề quá dài, chưa thể đề cập nhưng phải nhận là đạo đức, là một mặt đời sống tinh thần, nó nở hoa hay méo mó cùng một nguyên nhân, cùng một kết quả với văn học, nghệ thuật.

Nguyên nhân của sự sa sút quá đáng của mặt văn hoá, tư tưởng của ta có phải là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng: mọi việc phải theo ý lãnh đạo, một hình thức toàn trị về tinh thần, tư tưởng? Nó thui chột mọi sáng tạo cá nhân. Trước đây còn lờ mờ, nhưng nay đã lộ rõ.

Trước đây, văn học, nghệ thuật có phong trào, có chủ soái, có đấu tranh, có ngành phê bình như thơ mới chủ soái là Phan Khôi, Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, họ sáng tác, họ tranh luận, họ phê bình… Có phong trào rộng khắp trong nhân dân. Thật kỳ lạ! Đó mới là thời kỳ nở rộ về văn hoá, lại xuất hiện trong thời kỳ thuộc địa, dân lại 95% không biết chữ. Phải chăng văn học, nghệ thuật được tự do mới bay bổng? Cái gọi là “tính Đảng”, “lề phải”, “lề trái” trong văn học nghệ thuật, trong thông tấn báo chí là thuốc độc. Có khác gì người uống rượu khen rượu làm cho họ hưng phấn, họ mạnh lên.

đ. Khủng hoảng lãnh đạo:

Lịch sử đã chứng minh, một đất nước vượt lên đều gắn liền với một cá nhân kiệt xuất. Napoleon khi đã là Hoàng đế, triệu tập chuyên gia để làm luật dân sự, sự hiểu biết của ông vê luật làm mọi người ngỡ ngàng. Ông giải thích: khi còn trẻ, là trung uý, đã bị phạt giam, trong phòng giam có sách, ông đọc thế rồi ông nhớ. Đạo luật “Sổ lao động” …là của Napoleon tồn tại đến giờ. Hồ Chí Minh, Lý Quang Diệu, Lý Thừa Vãn, Đặng Tiểu Bình, Tưởng Kinh Quốc đã minh định kết luận trên.

Với cái não trạng, cái lề lối làm việc của chúng ta hiện nay không thể chọn được người tài; ta lấy mục tiêu giữ vững chuyên chính, ai trung thành với ta thì ta chọn, chọn người thân cận, chọn người quanh ta… Người tài thì ở khắp nơi, họ đâu phục ta, quý ta, tin ta mà theo ta, rồi có theo ta lại nhiễm những thói xấu của ta, họ cũng thui chột. Cách của ta chỉ phù hợp với một chế độ đóng cửa, nghĩa là hàng chục năm mọi việc cứ năm sau như năm trước: không xuất cảnh, không Internet, không giao lưu, du học nước ngoài… mọi người câm nín. Giá Đảng Cộng sản Việt Nam giữ như Triều Tiên, Cu Ba…ông Fidel nghỉ, ông Ra-un thay; Ông Kim Nhật Thành mất, Ông In làm, có phải nhẹ nhàng, ăn chắc không!

Có điều rõ ràng nhất, chưa thấy một ai trong số 15 người khổng lồ, tỏ ra có các điều kiện của một chính khách: thiếu nhìn xa, trông rộng, không phân tích được tình hình để có kế sách phù hợp, làm hỏng rồi chữa, nói mãi mà không làm được. Thực ra chưa ai chuẩn bị cho mình thành chính khách, chưa ai đi theo một chính khách đích thực để làm học trò…

Ông Ôbama nói dài, viết dài, xem kỹ lại là các chuyện thời thơ ấu, các điều răn dạy làm người. Ông đi khắp nơi để bàn về hoà bình, sao không còn thấy ông lớn tiếng dài hơi… Cương lĩnh của ông chỉ có 3 chữ: “Phải thay đổi!”. Ông đẩy mạnh hoà bình, dân chủ bằng diễn đàn toàn cầu, bằng lời góp ý với các nước. Có gì rầm rộ đâu! Ông biết rằng chỉ có hoà bình mới ngăn chặn Trung Quốc làm liều, chỉ có dân chủ, nhân quyền người dân Trung Quốc mới đổi thay số phận. Ông không đến Việt Nam nhưng những việc ông làm là nỗi khát khao của Việt Nam: dân chủ và hoà bình. Dân chủ trong ôn hoà mới mong tránh được kiếp chư hầu. Ông Obama được giải thưởng Nobel là đúng. Vừa bước lên sân khấu nhưng giọng hát, lời ca đã đi ngay vào lòng người. Ông Ôbama chuẩn bị cuộc đời mình, cuộc đời của một chính khách xuất sắc, động thái đó hiển hiện ngay từ ngày đầu cầm quyền.

Hôm nay, ai cũng nhận định là tình hình đất nước nhiều bê bối. Nhiều người cho rằng xuất phát từ sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là từ Bộ chính trị.

Nói cho rõ hơn là từ sau WTO, nếu ta cởi mở về chính trị thì tình hình có thể khác đi, nhưng ta vẫn giữ nguyên nếp cũ. Ngày hôm nay ta ngẫm lại xem, ta vẫn như xưa. Vẫn một nền nếp hội họp, ban hành các quyết định rồi cái thì làm được, cái thì làm được một nửa, có cái nói mà không làm hoặc nói một đàng làm một nẻo… Vẫn dài dòng, thiếu sức sống, cũng ngày càng thêm nặng nề. Nặng nề đến mức tự Bộ chính trị phải kêu ầm lên là suy thoái, nói cả đến việc sẽ bị “tự diễn biến” từ trong nội bộ. Có người nói, nền nếp lãnh đạo của ta 60 năm rồi vẫn thế.

Tình hình chính trị như vậy là do sức sống của Bộ chính trị. Bộ chính trị không có một người gọi là chủ soái, nhóm này hôm nay thiểu số, mai lại đa số, nên có người nói một chính thể mà hai đường lối… mà lại không giữa chừng thay được như người ta, phải chờ đến Đại hội. Đến Đại hội vẫn nhùng nhằng như vậy. Thế là suy thoái dài dài, ta tụt hậu sau các nước cùng cảnh ngộ trước đây nhiều chục năm.

Nói riêng từng người, đến hôm nay không một ai gây được cảm tình từ trong nhân dân, ấy là chưa kể đến có người bị người đời dè bỉu. Kể cũng tội, nhiều người được Cụ Mười, Cụ Anh tôn lên, mà hai Cụ nào có biết ai là người tài. Các Cụ có cái chuẩn là kẻ nào bảo được là trung thành với chế độ, đó là chuẩn số 1. Ai làm cũng được, nên đã có chức, có quyền là tự tin ngay. Đầy tự tin mà kém cỏi thì đúng là: “giao quyền hành cho kẻ kém cỏi, khác nào giao súng cho thằng điên”. Choáng ngợp trước quyền hành, giữ quyền hành đến cùng, nhưng lại không làm được việc, lại không tự giác thừa nhận, do đó bưng bít, tránh né. Và cuối cùng là nội bộ mâu thuẫn, nội bộ đã loại trừ nhau…Đất nước gánh chịu tất cả.

Đó là một cơ chế xây dựng quyền lực lạc hậu, nó kìm hãm sự phát triển. Cơ chế này, lúc này lại phải đối mặt với hai thách thức, cùng một lúc ập đến: ta phải hoà nhập với thế giới phương tây để phát triển. Trung Quốc thâm nhập nước ta, mối đe doạ ta phải phụ thuộc họ đã quá rõ ràng. Bộ máy lãnh đạo tối cao của ta như đang bó tay, thế là ta vừa lạc hậu, vừa nô lệ như một sức nặng đè ta nghẹt thở. Bộ máy lãnh đạo tối cao lúc này như đang nghĩ quẩn, trong một tình thế quẫn.

Tôi không hề oán giận các vị. Vì lẽ con người bị hoàn cảnh chi phối, nhào nặn là lẽ thường. Tiếc rằng các vị không ai được bồi đắp để trở thành chính khách, có quyền lại không có một cơ chế ràng buộc, kiểm soát thì tất yếu xảy ra tình hình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.

Có lẽ lúc này tìm cách để thay đổi, vớt vát lại. Cái gì cho bản thân, cái gì cho đất nước là con đường tốt nhất.

Gần đây việc dùng bạo lực tràn lan: bắt bớ, giam cầm, xét xử các nhà dân chủ, với các tội gán ghép; xô xát, đàn áp giáo dân, phật tử, tu sĩ; bịt miệng, mạt sát các trí thức, bắt bớ, xét xử các nhà báo… Có nghĩa là đánh tất cả. Không hiểu nhà nước, Đảng dựa vào ai để tồn tại? Hay là như người ta nói: khi sắp tan rã thường một chính quyền… tăng cường đàn áp?

Dựa vào công an để tồn tại? Không được, vì một khi trong Bộ chính trị đang có sự chia rẽ thì Công an nghe ai? Công an thi hành các mệnh lệnh đơn lẻ thì được, nhưng đại cục, lúc có biến động lớn thì không thể tin được. Nhân dân biểu tình, ngực đeo biển “Tôi là nhân dân”, tay họ cầm hoa… Liệu những người cầm súng có chúc mũi xuống đất như ta đã thấy khi bức tường Berlin bị rỡ bỏ không? Đó là cảm nhận của đông người.

Dựa vào Trung Quốc để tồn tại? Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao. Tôi chỉ thấy con đường duy nhất: tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ.

Gần đây đã lộ rõ một đường lối của Phương Tây: cụm lại để kiềm chế Trung Quốc. Dù có nhiều điều không bằng lòng họ vẫn hồ hởi với Việt Nam, vì Việt Nam còn yếu, nhưng lại vì “Ai giữ được Việt Nam, người ấy chiếm được thế giới!”. Có sai lầm không khi nói: Trung Quốc là một nước có nhiều cà rốt, một nước đã từng dạy Việt Nam về lễ nghi, về cách ứng xử nhưng sao lại dùng cách lấn át, lăng nhục, cướp bóc và tàn sát…Nếu Trung Quốc thật khoẻ còn khá, nếu chỉ là bề ngoài khoẻ thì khả năng Trung Quốc nắm phần thua là điều không thể không xẩy ra.

Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn Đảng, còn quyền nhưng lại là đầy tớ; đi với Phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất thân phận tôi đòi. Mà đi với Phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia.

Có thuyết đu đưa giữa hai thế lực và hình như chưa đâu áp dụng – một thuyết đưa hai thằng thông minh vào cuộc có lợi cho thằng dốt! Thế thì chúng ta chọn ra 2 người đi, đưa ông Ôbama và Ông Hồ Cẩm Đào vào cuộc để rồi cử một nhà ngoại giao Việt Nam đứng giữa để thu lợi cho Việt Nam. Thuyết đu đưa giữa 2 thế lực chỉ là cái thuật trong việc tranh chấp cụ thể, không thể đưa thành thuyết nọ, thuyết kia. Ông đại sứ Việt Nam ngồi vào HĐBA Liên Hợp Quốc tuyên bố xanh rờn: “Không phụ thuộc vào nước lớn”, trong khi Trung Quốc lấn át ta bằng đổ máu, bằng giành giật tài nguyên… Thật là cười ra nước mắt.

Đất nước lạc hậu kéo dài đến gần nửa thế kỷ, các việc ta làm đổ bể, mất mát nhiều hơn là được. Thế giới đang biến động mà ta chập chững, loay hoay. Con đường đi lên chỉ thấy khó khăn. Phải chăng ta bị ý thức hệ kìm hãm? Phải chăng chúng ta chỉ là người trưởng thành trong chiến tranh và bao cấp? Phải chăng hoàn cảnh quay lưng lại với chúng ta, hoàn cảnh đã vượt chúng ta, hoàn cảnh đã đào thải chúng ta?

e. Sự thay đổi đã đến gần:

Hay là dân chủ hoá đã đến gần. Hay đúng hơn: Dân chủ hoá là có thể. Xét trong phạm vi trong nước, nếu một lòng để Trung Quốc sai khiến thì coi như mất nước; mất một lúc cả độc lập, tự do, hạnh phúc. Có nghĩa là ta một lúc gạt bỏ lịch sử 4000 năm. Hậu quả là sẽ có biến động, bạo động, ly khai, nổi loạn ở trong nước… Đó là chắc chắn. Không cần biện luận. Đừng hòng có ai sống yên thân.

Xét trong phạm vi thế giới, cái hoạ Trung Quốc coi như cái hoạ toàn cầu, thiên hạ đã dứt khoát như thế. Có các động thái họ cụm lại, cụm để hạn chế Trung Quốc. Mà hạn chế Trung Quốc trước mắt phải giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Ôbama đi khắp nơi rao giảng hoà bình, cố gắng thu hẹp các lò lửa chiến tranh. Ông đang bàn thảo để khôi phục lại các căn cứ quân sự Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương. Thế là vừa lên sân khấu, khúc ca đầu tiên đã cuốn hút lòng người. Giải Nobel của ông không phải là vội vã mà là đích đáng. Các nước Asean lôi kéo Trung Quốc vào bàn đàm phán để hai bên cùng có lợi, ai ngờ việc đầu tiên lại là vấn đề Biển Đông. Thế là lời ông Dương Danh Dy: “phải chống Trung Quốc nhưng Việt Nam đừng chống một mình”. Thế giới đã nghe theo. Lời ông đúng là: “Bụt chùa nhà không thiêng”.

Dân chủ hoá lúc này là có thể. Người Việt Nam không bao giờ chịu làm nô lệ. Người Tàu với Việt Nam hình như bao đời không ưa nhau. Dân chủ hoá, chỉ có các quan tham ở hai nước phản đối vì lo sợ mất tài sản, lo bị trả thù… Một khi lòng yêu nước trỗi dậy họ chấp nhận dân chủ hoá, thế là 100% dân Việt Nam một lòng giữ nước. Các nước trên thế giới: Âu, Mỹ, Asean sẽ hoan nghênh vì trút khỏi nỗi sợ Trung Quốc. Trung Quốc đang bối rối nội bộ, đang che chắn chống phản kháng của thế giới, làm gì có cuộc “động binh” nào chiếm Việt Nam. Cái chủ bài là khống chế được 15 người khổng lồ, nay họ ra đi, thế là hết phép. Truyền thông thế giới nói ít đến khó khăn của Trung Quốc là chưa thoả đáng.

Nói riêng 15 vị khổng lồ, đến ngày hôm nay khi họ đã đánh tất cả các từng lớp nhân dân, công việc thì bê bối, nội bộ chia rẽ đến phải bộc lộ để dân biết, cố gắng bày ra việc này việc nọ, nhưng còn ai tin, ai nghe? Chứng nào, tật nấy: cứ toàn trị, cứ cấm đoán… đến nỗi biểu tình chống hàng Trung Quốc cũng chờ lệnh…Tự nhiên trong cuộc thi thể thao trong nhà lại dám liệt Đài Loan thuộc Trung Quốc, ngang Hồng Kông, Ma Cao…

Can đảm chấp nhận dân chủ hoá là con đường duy nhất. Có bàn cãi chăng chỉ là ở điểm: chuyển đổi như thế nào.

IV. Đảng tách ra làm hai – Một cuộc chỉnh đốn đảng đích thực

a. Hãy chấm dứt một cách hiểu sai lệch:

Cựu tổng thống Bin Clinton nói ở đại học Thanh Hoa: “Phản biện sinh ra chân lý”. Hai phe có những ý kiến khác nhau, đưa ra tranh luận để tìm ra ý kiến đúng nhất, hai bên chấp nhận và cùng nhau hợp tác thực hiện, làm cho mọi việc tốt lên.

Ở ta, nhiều người cho dân chủ là tranh luận để thắng thua… Dân chủ chỉ có đối lập mà không có đồng thuận, không có hợp tác và chung trách nhiệm, chữ đối kháng chữ đa nguyên coi như cấm kỵ ai nói tới điều này là phạm tội hình sự!

Đảng tách ra làm hai là làm theo đúng tiêu chí trên: chân lý, phản biện, đồng thuận, chia sẻ trách nhiệm, cùng hợp tác, cùng thực hiện chân lý, cùng phục vụ nhân dân. Bài học Thái Lan đã chỉ rõ: dân chủ là đấu tranh để tìm ra chân lý, cái phải đạt là đồng thuận, đồng thuận ở Thái Lan đến chậm chạp quá, khi đạt được phải trái, đúng sai, họ sẽ tiến lên. Bảo rằng họ đánh nhau có nghĩa là đa đảng không tốt. Đó là do không hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên.

Đảng tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý…Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.

b. Chọn mô thức Đảng tách ra làm hai là một bó buộc:

Toàn trị thì tha hoá. Tha hoá thì suy yếu đi đến tan vỡ. Nói rằng “Đảng tự vỡ”, hôm nay không một ai phản bác nhưng tự vỡ như thế nào thì mọi người ngẩn ngơ.

Có cái gì như thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người tham quyền. Bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…Vì thế việc thay đổi như là một đòi hỏi sống còn.

Rà soát lại thì không còn hình thức chuyển đổi nào đã có tiền lệ trong lịch sử: không có phe đối lập để làm việc thay đổi; không có phe đối lập có thể dựa vào nước ngoài để gây ra một cuộc chuyển đổi, nếu có chỉ là một cuộc chuyển đổi để mà mất hết. Trong đội ngũ cầm quyền không có một người, một nhóm nào dám đứng lên để gạt bỏ đối phương để một mình lãnh đạo đất nước; lại không có thể có cuộc xâm lăng quân sự để có người anh hùng giải phóng dân tộc rồi làm vua, làm lãnh tụ…

Còn có những bó buộc khác: Đảng phải tập trung những người ưu tú của dân tộc. Hiện nay thành phần này và như gần hết nằm trong Đảng nhưng bị lép vế với bao nhiêu nỗi niềm đắng cay. Đảng là Đảng cầm quyền, những người có khả năng này là những người nằm trong Đảng, một khi cờ đến tay họ thì gió có yếu, cờ vẫn bay. Chúng ta còn có bao nhiêu người “cộng sản tử tế”, người vào Đảng để phục vụ nhân dân mà không hề băn khoăn cái gọi là ý thức hệ?

Nếu trong việc thực hiện, làm thật khéo léo, được mọi người ủng hộ, người muốn phản đối cũng thấy không có cái gì hơn đành tặc lưỡi chấp nhận, kẻ thù bên ngoài không có chỗ, không có cái lý để can thiệp, và cái yêu cầu nêu rất khiêm tốn, cần đạt được một điểm gốc chứ không đòi hỏi nhiều vì biết rằng dân chủ hoá là một quá trình, còn nhiều gian khổ… Có thể tóm lược các yêu cầu:

Có từ hai đảng, hai đảng kém, hơn hẳn một đảng xấu. Hai đảng thì có phản biện, có công khai, 4 năm một lần dân có thể thổi còi phạt góc, phạt 11m đến truất quyền thi đấu. Nhìn dần quen dần với vai trò làm chủ của mình, chính nhân dân hoàn thiện dần thể chế, có tham khảo những góp ý của các nhà chính trị, văn hoá để đi tới một nền dân chủ dần dần vững chắc.

Đảng viên là người lãnh đạo, đề ra quốc sách, ứng phó mọi cái… Thế thì phải thuộc về trí thức; mà trí thức ở nhiều lĩnh vực, với cái ý nghĩa trí thức là người giải quyết được mọi yêu cầu do cuộc sống của đất nước đặt ra. Vậy thì “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Một tỉnh có đảng bộ độ 50, 70 người, thành phố có 100 đến 200 người mà có tâm, có tầm, khoẻ bằng vạn đảng bộ có 4, 5 hàng con số… Có tâm, có tầm người ta sẽ làm, không gây hậu quả xấu, chỉ có kết quả tốt đẹp.

Việc chuyển đổi sẽ không gây biến động, không làm sáo trộn đất nước, êm ả mà chuyển đổi, chậm chạp và chắc chắn, bó buộc là không ai được để nước ngoài can thiệp, việc làm có tạo ra đồng thuận.

Không đặt ra việc tìm lý luận, đường lối, chủ thuyết. Đây chỉ là bước đi để hình thành tổ chức, cái việc này do tổ chức có chức năng làm. Lý thuyết về Đảng và Hội đã khá phổ biến trên thế giới rồi. Trước mắt phải có tổ chức, tổ chức… Thay đổi sao cho tương ứng với nhiệm vụ, với đặc điểm, đó là việc của từng đảng.

Hình thành tổ chức có thể hình dung: chính những người cộng sản thực hiện việc tách đảng, con người vẫn là cộng sản, không ai cướp quyền của Đảng. Lẽ dĩ nhiên có một số người ngoài Đảng xin gia nhập.

Phải coi việc tách đảng là một cuộc chỉnh đốn Đảng cộng sản hiện đang cầm quyền.

Đảng viên của Đảng đang cầm quyền sẽ chia ra: một số đi theo Đảng mới vừa thành lập, một số vẫn ở trong Đảng như hiện nay, một số sẽ ra khỏi Đảng vì rất nhiều lý do. Các Đảng mới sẽ tự hoạt động. Đảng đang cầm quyền nếu không tự tuyên bố giải thể mà vẫn tồn tại, vẫn hoạt động thì nên tổ chức việc kết nạp lại: những người nhiều tai tiếng, những người không thiết tha với Đảng họ sẽ không đăng ký xin kết nạp lại, thế là bớt đi một phiền nhiễu cả kẻ đi lẫn người ở lại. Các Đảng mới là cứ hoạt động theo một đạo luật mới, đều bình đẳng. Thế là thể chế đa đảng hình thành một cách êm ả.

Không quá coi trọng việc viết văn kiện, việc ra mắt. Cái chính là Quôc hội chấp nhận đại diện tham gia ứng cử Quốc hội lập hiến là mọi việc khai thông.

Giữ nguyên luật pháp hiện hành, luật mới ra đến đâu thì phủ định luật cũ đến đấy, chấp nhận có sự vênh giữa luật và thực tiễn, nhưng chỉ chấp nhận tồn tại thời gian tối thiểu.

Giữ nguyên bộ máy cũ và chấn chỉnh, sửa đổi dần dần, với một nguyên tắc: người cầm đầu phải là người giỏi nhất, người đứng ra chấn chỉnh ngành, chấn chỉnh từ trên xuống. Coi trọng vai trò người cầm đầu, giai đoạn đầu coi như họ tối hậu quyết định.

Giải quyết tham nhũng có ý kiến cần tiếp tục, có phản bác là giai đoạn vừa chuyển đổi, công việc bề bộn, nhân sự chưa ổn định không thể làm việc chống tham nhũng. Có ý khác là vẫn phải làm bằng mọi giá. Lại thêm có ý kiến chống tham nhũng sẽ rối loạn, sẽ không thiếu những đòi hỏi bức xúc, không riêng gì đối với chống tham nhũng và còn nhiều vấn đề của nhiều lĩnh vực khác. Có thể nên dành cho các Đảng được thành lập mở hội nghị bàn tròn để giải quyết.

V. Lộ trình tách đảng và ban vận động thành lập đảng

a. Thái độ của Bộ chính trị quyết định việc chuyển đổi:

Nếu bộ chính trị chưa cho rằng việc chuyển đổi là cần thiết và coi cuộc vận động là một hành vi phiến loạn rồi ra tay cấm đoán và đàn áp thì mọi việc cứ như hiện tình mà tiến bước, dành cho thời gian phân xử. Đó có thể là một sai lầm dẫn đến mất nước, khác gì là Lê Chiêu Thống? Nếu Bộ chính trị nhận thức được tình hình thế giới hiện nay các cường quốc đã quy về một mối. Trung Quốc gặp khó, không thể muốn làm gì Việt Nam thì làm. Nhân cơ hội này Việt Nam chuyển đổi thể chế thì Trung Quốc đành bó tay. Thế là ta thoát nạn và một thế lâu dài được mở ra. Trường hợp này chỉ cần Bộ chính trị mặc nhiên để cuộc chuyển đổi êm ả diễn ra và cao hơn nữa là mở hội nghị bàn tròn giữa Đảng và các tổ chức vừa hình thành bàn bạc. Việc chuyển đổi do quyết định đa phương phác ra. Khi chuyển đổi thể chế ở Ba Lan, Ba Lan đã phải họp 25 cuộc họp liên tịch, có nhiều cuộc kéo dài, thời gian đến nửa năm.

Ở Việt Nam đây là đóng cửa bàn chuyện nhà. Sau khi bàn soạn kéo dài, đưa ra tuyên bố giữ đảng và chính phủ với các đại biểu nhân dân về cuộc thay đổi thể chế.

Công việc trong nước không hề thay đổi. Từ trên mọi việc thay đổi dần dần. Có tuyên bố tin này đến nhân dân. Một số người sẽ không vui nhưng vẫn phải bằng lòng. Cuộc thay đổi trong tinh thần cả nước một lòng, gác lại quá khứ, toàn dân giữ nước, toàn dân một lòng xây dựng tương lai.

b. Tình hình hiện nay:

Trong tình hình chính trị đất nước hiện nay, cảm thấy là khó có người nào đó đứng ra hiệu triệu thành lập một Đảng chính trị, càng khó hơn ai dám bí mật tập hợp một số người để lập Đảng… Dù rằng bản thân người ấy đã là những đảng viên, những quan chức cỡ lớn, có tự tin là mình được nhiều người ái mộ, là mình làm một cuộc dấn thân vì nhân dân. Đây là hạn chế rất lớn. Làm sao để vượt qua? Có thể chấp nhận một bước đi quá độ, một bước thăm dò, một giải pháp để vượt rào có thể thu xếp như sau:

Một số người tự đứng ra vận động thành lập một đảng “Đồng thuận”, có tính Đa nguyên, tự xác định nhiệm vụ, lề lối như sau:

Thành phần là những đảng viên, cán bộ đã làm việc lâu năm trong tổ chức Đảng và tổ chức Nhà nước. Tức là có sự am hiểu nhất định về việc và người. Số người này xác định các đối tượng có thể là nòng cốt cho Đảng cần tổ chức để bàn soạn việc chung và riêng.

Ban vận động cần mời được đủ từ 30 đến 50 đối tượng thì coi như hoàn thành nhiệm vụ. Khi mời được người thứ 5, thứ 7 thì những người được mời dĩ nhiên trở thành thành viên Ban vận động.

Khi con số lên đến 30, 50 thì Ban vận động tự giải thể. Ban phụ trách lâm thời của Đảng được ra đời. Từ ấy, mọi việc là của Ban phụ trách lâm thời.

Ban vận động xét cho cùng là một tổ chức “lobby chính trị”, một ban liên lạc, một ban thăm dò. Các thành phần trong Ban vận động sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lấy thời điểm các ban phụ trách lâm thời các Đảng làm nhiệm vụ thì tự giải thể. Các thành viên Ban vận động dù có khả năng cũng không được tham gia các ban bệ của Đảng mới.

Việc Bộ chính trị không ngăn chặn, không cấm đoán, không khủng bố những người trong Ban vận động thì mặc nhiên có sự ra đời các Đảng mới, thực chất là các Đảng viên hiện nay tách ra coi như Bộ chính trị bật đèn xanh cho việc chuyển đổi thể chế.

c. Cái mô thức dân chủ hoá có thể bị dập tắt trong quá trình thực hiện vì không có sự đồng thuận của đa số trong Bộ chính trị:

Ngược lại mô thức này thành công ở thời điểm luật Bầu cử Quốc hội được ban bố và các Đảng cử đại biểu tham dự mà không bị cản trở. Cái chốt đã được vứt bỏ, chúng ta không cần bàn nhiều, có biết bao nhiêu tài năng được cởi trói, mọi việc có thể tiến hành rất nhanh ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Cái não trạng tự mình hù doạ mình sẽ được gột rửa.

VI. Vài dòng kết thúc

Trung Quốc hình như đã đi quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. “Trung Quốc là con hổ ngủ”, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe. Có đến gần 100 năm rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù doạ. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang lên thành ra ngoa ngôn. Các trí thức thế giới hãy nghiên cứu kỹ Trung Quốc để có sự thống nhất nhận định, chỉ đạo cho mọi suy nghĩ và hành động của nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam có lẽ là người xếp hàng số 1 để có được tài liệu này. Người ta còn nghĩ rằng Trung Quốc đang đi vào con đường của Liên Xô.

Một tình thế mới đang hé lộ: các nước lớn đã thấy mối đe doạ của Trung Quốc, họ như đang cụm lại để ngăn chặn Trung Quốc, cả các nước Asean cũng đã đòi tham gia giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông… Khủng hoảng về tài chính cũng làm cho Trung Quốc bị tổn thương, chưa rõ mức độ, khác với trước đây là đa cực nay hình thành như có hai cực… Điều này là một cái may, là một vận hội chưa bao giờ có. Nếu thế giới ngăn chặn được Trung Quốc thì Trung Quốc không thể chèn ép quá mức Việt Nam. Lúc này là lúc Việt Nam nên có thái độ rõ ràng. Thế giới phải giữ Việt Nam. Trung Quốc phải chiếm được Việt Nam. Trung Quốc mạnh hay thế giới mạnh, thời điểm một mất một còn, dù chon lựa gì thì cũng phải theo Phương Tây, mất Đảng còn nước. Theo Phương Đông mất nước, Đảng còn nhưng là cái xác không hồn, thế là mất cả Đảng cả nước, rồi dẫn đến Hán hoá là mất cả dân tộc. Một sự lựa chon không cần phải bàn cãi. Lúc này là lúc dứt điểm. Còn đối với Trung Quốc vẫn giữ hoà hảo như xưa, không sợ quá mức, hãy xem Trung Quốc gần đây đã hạ giọng rồi… Ta cũng phải kiên trì 16 chữ vàng vì đã nói là “chữ” thì chữ bao giờ cũng đúng. Cái sai là giải thích sai, cái sai là lớn hơn, là thực hiện sai. Ta nên lấy 16 chữ vàng để buộc Trung Quốc phải thực thi. Ta phải giao quyền lực cho Quốc hội để làm chỗ dựa đối nhau với Trung Quốc và luôn nhớ rằng ta không biết tự vệ là thiếu sót của ta.

Lúc này hãy nghiêng hẳn về Phương Tây, lúc này chớp thời cơ để dân chủ hoá, Trung Quốc đang lúng túng, chưa thể “động binh” để diệt ta. Đánh lẻ, ăn chắc trong cái thế toàn cục đang chưa ổn định. Phải chăng là điều có thể?

Đất nước ta hôm nay như trong tình trạng nước sôi lửa bỏng: Trước Đại hội X, mong mỏi của nhân dân là mở rộng dân chủ cho dễ thở, có lực để phát triển và chống được tham nhũng. Trước Đại hội sắp tới, việc Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam quá rõ ràng. Mọi suy nghĩ chuyển thành làm sao giữ được độc lập. Tất cả tập trung hy vọng vào việc dân chủ hoá. Dân chủ hoá sẽ giải quyết được việc trước mắt là độc lập, nhưng cũng một lúc giải quyết tham nhũng và mở đường cho phát triển.

Thế là trở lại khẩu hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của năm 1945. Dân chủ hoá! Hai chữ ngắn gọn mà ngọt ngào, lại là tất cả trong lúc này.

Luật Sư Trần Lâm
Tháng 11/2009


Khi chủ tịch nước kể chuyện tiếu lâm XHCN

02/12/2009

Trong một xã hội phát triển ngày nay, việc phát biểu trước công chúng của các quan chức, đặc biệt là những người đứng đầu nhà nước là điều được công chúng xem trọng, và được đánh giá kỹ qua từng lời ăn tiếng nói. Chính vì vậy, các chức sắc cao cấp đều phải cẩn thận và chuẩn bị kỹ cho những bài phát biểu của mình, bằng không thì dễ làm trò cười cho thiên hạ nếu có những lời phát biểu ngô nghê. Trường hợp của ông chủ tịch nước CHXHCNVN Nguyễn Minh Triết có lẽ là một trường hợp hiếm có, vì ông chủ tịch này đã năm lần bảy lượt có những lời phát biểu ngô nghê, tạo ra những trận cười nghiêng ngữa cho người nghe.

Trò cười gần đây nhất là khi ông đến tham dự và phát biểu trước đám đông tại “Hội nghị người VN ở nước ngoài” ở Hà Nội hôm 22/11/2009. Trong bài phát biểu dài dòng trước đám đông đại biểu cán bộ trong nước và Việt kiều, ông đã nhiều phen chọc cười người nghe. Bài phát biểu của Triết có 2 nội dung chính: phần đầu là chia sẻ với các Việt kiều về nạn tham nhũng bất kham trong nước; trong phần còn lại thì Triết thao thao kể chuyện …”tếu” ngoại giao. Hai đoạn video clips quay cảnh Triết phát biểu này đã được đưa lên YouTube, và đang trở thành “Hot” clips với số người xem tăng vùn vụt.

Lời phát biểu của Triết trong đoạn video YouTube thứ nhất

Bên dưới đây là nguyên gốc bản ghi chép lời của Triết trong đoạn video thứ nhất trên YouTube:

    “Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có kinh nghiệm trong quản lý. Là ở nước người ta đó, thì muốn tiêu cực muốn tham nhũng cũng khó vì cái hệ thống luật phát nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham,… Cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, (bà con bắt đầu cười, làm Triết cao hứng lên). Mượn thì hổng thấy ai đòi hết (và một tràng vỗ tay cười ồ,… nên càng kích thích riết lên tông) thấy hông,… thì em mượn thêm. Chứ hổng phải người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới đâu,… Nói một hồi thì thấy người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới, hông phải dzậy. Cho nên tôi đề nghị quý vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng nghĩ rằng sao trong nước mình tiêu cực quá. Mà hồi xưa mấy ổng quánh giặc sao giỏi thế mà bây giờ mấy ổng tiêu cực thế (rồi cười khề khà,…). Đây là quy luật muôn đời (một tràng vỗ tay cười to). Con người ta trong mỗi người ai cũng có hỉ nộ ái ố hết trơn…. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra. Trên thế giới này ít có nơi nào có cái đó lắm á,…”.

Trong phần này Triết muốn chia sẻ với các Việt kiều “yêu nước” về vấn nạn tham nhũng tại Việt Nam. Triết cho rằng các quan chức nhà nước CSVN “không muốn tham cũng động lòng tham” bởi vì “chưa có kinh nghiệm trong quản lý”, trong khi ở các nước khác thì khó xảy ra bởi vì “hệ thống luật phát nó chặt chẽ”. Còn nói rằng “chưa có kinh nghiệm trong quản lý” vì vừa ra khỏi chiến tranh, thì xin hỏi ông chủ tịch, thế thì 34 năm rồi mà vẫn còn chưa đủ sao? Hay là đợi đến 50 năm rồi mới tính sổ luôn?

Để các đại biểu Việt kiều hiểu rõ hơn cái lòng tham này, Triết đã đơn cử ví dụ về hình ảnh người kế toán trong các cơ quan nhà nước bằng cách ví von: “Cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút. Mượn thì hổng thấy ai đòi hết (thấy hông),… thì em mượn thêm”. Không biết có phải là ông chủ tịch suy bụng mình ra bụng người ta nên mới nói vậy chăng? Quả là một cách ví von vui tai thật, hết ý kiến luôn!

Triết lại khiến cử tọa cười ran khi phán rằng nạn tham nhũng là “quy luật muôn đời”. Chưa hết, ông chủ tịch này lại chọc cười cử tọa tiếp khi bi bô câu chuyện “con Rồng cháu Tiên” của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, nhưng lại nói trại ra là “con Lạc cháu Hồng”, và còn hùng hồn nói rằng “Trên thế giới này ít có nơi nào có cái đó lắm á,…” (là cái bọc trứng đấy!). Mà làm gì có chuyện “ít có nơi nào”, bởi vì chẳng hề có nơi nào có câu chuyện huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ ngoài Việt Nam ra. Hay là ông chủ tịch quên bài học vỡ lòng này rồi?

Đoạn video YouTube thứ nhì

Đây là đoạn ghi lại âm thanh hình ảnh ông chủ tịch nước kể chuyện phiếm ngoại giao trước cử tọa Việt kiều. Triết lần lượt kể các mẫu chuyện ngoại giao khi viếng thăm các nước Tân Tây Lan, Na Uy, Áo, Hy Lạp, Mỹ,.. Bên dưới đây là nguyên gốc bản ghi chép (Transcript) lời của Triết trong đoạn video thứ nhì:

    “… Qua New Zealand thì bà thủ tướng lúc đó bả nói rằng cả cái nội các của bả là thế hệ Việt Nam. Người ta tự hào lắm, người ta nói giữa cái hội trường đông người như thế. Sang Na-Quy thì ông thủ tướng Na-Quy ổng nói lúc tôi còn bé 13, 14 tuổi tôi đã đi quyên góp vân động để gây quỹ ủng hộ cho Việt Nam. Tôi đi theo chị tôi, anh tôi là những người lớn hơn, đấu tranh mạnh mẽ hơn, còn tôi thì chỉ làm công việc quyên góp thôi.

    Tôi gặp ông tổng thống Áo thì ông tổng thống Áo nói dzới tôi một cách hùng hồn rằng ngày trước tôi gặp ông Mac Namara lúc ổng làm bộ trưởng quốc phòng, tôi nói rằng ông không thắng được Việt Nam đâu, nhưng mà Mắc-ra,… Ma-ra không nghe. Sau này khi Mắc-Na-Ma-Ra không còn làm bộ trưởng quốc phòng nữa thì gặp lại ổng và nói rằng lúc trước tôi không nghe ngài.

    Tôi sang Hy Lạp thì ông tổng thống Hy Lạp ổng nói như những người cộng sản. Mới tháng 9 vừa rồi tôi đi dự hội nghị các nhà lãnh đạo của 15 nước hội đồng bảo an LHQ. Mình đến cuộc họp này dzới một cái tư thế là mạnh mẽ (chiếu tấm hình Triết ngồi xuống tại LHQ), mà mình là người có tiếng nói mạnh mẽ, chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế. Và ngay Đại hội đồng LHQ vừa rồi, kỳ họp sáu mươi tư (64). Cũng ở diễn đàn đó mình lại lên tiếng, mình phê phán cái dziệt là cấm vận Cu-Ba. Và trong cái cuộc họp đó, ngoài những cái ý kiến chung thì tôi có thêm một cái ý kiến: tôi hoan nghênh ông Ô-Ba-Ma. Ổng tuyên bố là ổng sẽ đóng cửa nhà tù Ga-Ta Na-Mô mà. Nhưng mà tôi nói rằng ông Ô-Ba-Ma ơi, vấn đề này là khó lắm đó. Tôi chúc ông phải nỗ lực để thực hiện cho bằng được cái này. Tôi nói mà tôi nhìn Ô-Ba-Ma tôi thấy ổng ahhh, cũng chăm chú lắm, cũng lắng nghe. Như thế là mình vừa động viên Ô-Ba-Ma, nhưng mà mình vừa muốn phân hóa cái … cái nội bộ của ổng,.. ahhh,..

    Như vậy đó, tôi muốn nói dzới các đồng chí dzới quý vị rằng cái vai trò, cái vị thế của mình bây giờ cũng ngang hàng dzới người ta, cũng nói năng cũng đúng mức đàng hoàng,…”

Nói đến bà cựu thủ tướng Tân Tây Lan Helen Clark, người rời khỏi chức vụ thủ tướng nước này hồi năm ngoái, sinh năm 1950, tức là lớn lên cùng thời với cuộc chiến Việt Nam. Bà cựu thủ tướng này cũng như hầu hết các thành viên nội các đều có tuổi tác ở thế hệ này nên bà mới nói mình thuộc “thế hệ Việt Nam”, nhưng ông chủ tịch lại vội vơ vào, cứ tưởng bở rằng hễ nói đến “thế hệ Việt Nam” cũng có nghĩa là ủng hộ cuộc chiến của Việt cộng. Cho nên nói là “người ta tự hào lắm” là tự hào cái gì vậy, thưa ông?

Đề cập đến 2 nước Bắc Âu là Na Uy và Áo, ông chủ tịch lại khoe mẽ với đám Việt kiều về câu chuyện phiếm ngoại giao liên quan chiến tranh VN khi trao đổi với nguyên thủ hai nước này. Nhưng không biết dụng ý của ông chủ tịch là gì khi kể lại rằng tổng thống Hy Lạp “nói như những người cộng sản”. Có thể là ông tổng thống Hy Lạp “nói như những người cộng sản” nhưng ông ấy có hành động như người cộng sản hay không lại là một chuyện khác, bởi vì ông tổng thống Hy Lạp cũng như nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới này đều thông hiểu lý thuyết cộng sản, nhưng chẳng có ai áp dụng lý thuyết cộng sản, ngoại trừ 4 nước cộng sản còn lại.

Câu chuyện phiếm ngoại giao cuối cùng và cũng là câu chuyện vui nhất đề cập đến chuyến đi đến Mỹ của Triết để tham dự phiên họp của Khóa họp thường niên lần thứ 64 Đại hội đồng Liên hợp quốc. Tại đây Triết đã có một bài phát biểu liên quan đến sự hợp tác với quốc tế trong các lĩnh vực, vấn đề Bắc Hàn và Iran, việc cấm vận Cuba, vấn đề chất Da Cam,… nhưng tuyệt nhiên tên của Tổng thống Obama cũng không hề được nhắc đến trong đoạn video về bài diễn văn này. Vả lại, trong chuyến đi này đến LHQ, mặc dầu rất muốn có một cuộc gặp gỡ với Tổng thống Obama, nhưng Triết đã không có được cơ hội này. Vậy thì lấy đâu ra câu chuyện “tôi có thêm một cái ý kiến: tôi hoan nghênh ông Ô-Ba-Ma”, để rồi Triết thao thao kể lại:

    “Tôi nói mà tôi nhìn Ô-Ba-Ma tôi thấy ổng,… cũng chăm chú lắm, cũng lắng nghe. Như thế là mình vừa động viên Ô-Ba-Ma, nhưng mà mình vừa muốn phân hóa cái … cái nội bộ của ổng,..”

Ấy chết, sao lại có chuyện “vừa động viên Ô-Ba-Ma”, và cũng muốn “phân hóa cái … cái nội bộ” của người ta là làm sao vậy? Sao ông chủ tịch chơi cái trò gì kỳ vậy? Nhỡ những lời này đến tai người ta thì ăn nói làm sao đây? Mà cái trò “phân … hóa” này thối lắm ông ạ, xưa lắm rồi, nói ra chỉ làm cho người ta cười vào mũi thôi.

Nghe cách phát biểu của Triết thì người ta có thể suy ra 3 giả thuyết về còn người này:

* Thứ nhất: có lẽ là trình độ của ông chủ tịch chỉ độ … lớp 3 trường làng

* Thứ hai: có thể là ông chủ tịch vui tánh, thích nói chơi để loè thiên hạ.

* Thứ ba: có thể là ông chủ tịch đã bị đứt dây thần kinh mắc cỡ rồi chăng?

Hoặc rất có thể là tất cả 3 giả thuyết trên đều đúng?

Thôi thì, dù đúng hay sai, các đại biểu Việt kiều hôm đó cũng đã được ông chủ tịch bỏ công kể chuyện tiếu lâm XHCN và những vị này đã có được những trận cười không ngớt.

Úc Châu, ngày 1/12/2009
Lê Minh


Tôi biết gì về Trung Quốc?

01/12/2009

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”

– “Cái gì? 55 năm?”

– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.

Sự thật và trải nghiệm

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.

Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

Du học ở Trung Cộng

Tuổ trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.

Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi..

Thời kỳ đã trưởng thành

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

Trung Quốc hôm nay?

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.

Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich

Nước Trung Hoa hình quẻ chấn

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

Cung điện Tây Tạng Potola

Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương

Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..

LỜI CUỐI BÀI

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

Đông dân là một sức mạnh

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,

Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

KTS Trần Thanh Vân


Một số cảm nhận về hai chữ “Dân Chủ”

30/11/2009

 

GIF - 24.2 kb
Kỹ sư Nguyễn Đăng Cao Đại

Xin tự giới thiệu, người viết bài này chỉ là một kẻ ham mê đọc sách, ham mê tìm hiểu lịch sử. Về chính trị, người viết hoàn toàn thờ ơ và thậm chí “không ưa” gì lắm.

Tất cả những gì tôi viết ra dưới đây, đều chỉ xuất phát từ lòng yêu nước, yêu dân tộc Việt Nam và đảm bảo, được viết ra từ suy nghĩ thật của lòng mình, nghĩ sao nói vậy. Tôi muốn bày tỏ chính kiến của riêng bản thân mình với ước mong sao cho nước nhà sớm có dân chủ, tự do, thịnh vượng thật sự mà thôi.

Trước tiên, muốn có cảm nhận về hai chữ “DÂN CHỦ” thì phải hiểu “Dân Chủ là gì?”. Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, nhất là đối với những người “phi chính trị” (dân làm kỹ thuật, dân hoạt động kinh doanh, dân công chức văn phòng…vv…chẳng hạn). Chính vì vậy mà thay vì dùng những từ ngữ quá to lớn, tôi chỉ xin trình bày cách hiểu của tôi về khái niệm thế nào là “dân chủ” dưới góc nhìn của một thường dân. Qua đó, hy vọng ngay cả dân trong giới “phi chính trị” cũng nắm được cơ bản khái niệm nhạy cảm này.

“Dân Chủ”, nói ngắn gọn là một hình thức xã hội mà “Toàn bộ Quyền Lực nằm trong tay người dân, bộ máy quyền lực của nhà nước, chính quyền do nhân dân trực tiếp điều hành. Và nhà nước ấy phải là nhà nước pháp trị thật sự. Các quyền dân chủ tự do, nhân quyền của nhân dân trong toàn xã hội được nhà nước pháp quyền ấy thực thi và tôn trọng một cách đầy đủ, toàn diện nhất…”.

Tuy nhiên, trong thực tế, mọi chuyện lại không đơn giản như vậy. Để xác định một đất nước có dân chủ hay không thì phải xem xét nhiều vấn đề. Người dân được làm gì và không được làm gì? Quan hệ giữa người dân và nhà nước, chính quyền là quan hệ gì? Trên thế giới hiện nay, nước nào là có mức dân chủ cao nhất? Nước nào hoàn toàn không có, mà thể chế chính trị của họ chỉ thực ra là bản chất một chế độ độc tài mà thôi? Nước nào chỉ hô hào ta có Dân Chủ, nhưng trên thực tế thì mức độ dân chủ rất thấp hoặc không hề có chút dân chủ tự do gì cả? Và đời sống “dân chủ” trong một xã hội có cần thiết không? Một quốc gia không có “dân chủ” có phát triển được hay không? Hoặc “dân chủ” có gây rối loạn cho xã hội không? Dân chủ có xâm hại đến chủ quyền đất nước và an ninh quốc gia hay không? Dân chủ có gây mất đoàn kết không, có làm chia rẽ dân tộc không?…vv và vv…Có biết bao câu hỏi được đặt ra liên quan xoay quanh khái niệm này mà trong suy nghĩ của người viết và cũng như của biết bao bạn đọc cứ lởn vởn trong tâm trí của tôi và của biết bao người quan tâm đến giá trị thiêng liêng này…

Theo ý kiến của riêng tôi thì có ba lập luận mà chúng ta thường nghe và cần làm rõ như sau:

Lập luận thứ nhất là: “Tại đất nước Việt Nam hiện nay, vì dân trí còn thấp, do đó chưa nên có dân chủ, nếu có dân chủ sẽ loạn mất, sẽ làm mất ổn định chính trị dẫn đến môi trường xã hội bị hỗn loạn thì làm sao có cơ hội cho mở mang và phát triển đất nước nữa…”. Nếu vậy, thì có lẽ chúng ta cần phải đặt ra một số vấn đề tiếp theo để thử đi sâu phân tích chẳng hạn như sau:

Đầu tiên, giả sử lập luận trên là đúng thì có nghĩa, là khi dân trí cao hơn mới được quyền thực thi dân chủ, tự do. Vậy dân trí cao là cao cỡ nào? Phải quy định mức nào là mức dân trí cao, để đặt ra mục tiêu mà còn phấn đấu cho bằng được. Nếu không có chuẩn cụ thể thì mai mốt dân trí đã cao lắm rồi, chúng ta vẫn nói “chưa cao” thì biết đâu mà lần. (?!) Đồng thời, trách nhiệm nâng cao dân trí chính là trách nhiệm của các nhà lãnh đạo đất nước chứ không phải trách nhiệm ấy của người dân hay ai đó chung chung vô hình. Vậy các nhà lãnh đạo quốc gia phải cam kết với xã hội, với nhân dân trong bao nhiêu năm nữa thì dân trí sẽ cao đến mức cả xã hội sẽ được hưởng quyền có dân chủ, tự do…? Không thể nói chung chung mà phải nói rõ cụ thể là trong bao lâu nữa. Nếu cứ thả nổi thì một trăm, thậm chí một nghìn năm sau chúng ta vẫn nói: “Vì dân trí trong xã hội còn rất thấp nên chưa nên có dân chủ, chưa thể thực thi dân chủ được…”. Như vậy là, với lập luận kiểu cách này thì có nghĩa là nhà cầm quyền chỉ muốn biện minh cho việc từ chối mãi mãi không trao trả lại cho nhân dân, cho cả dân tộc quyền được sống trong một xã hội có tự do, dân chủ thật sự mà thôi. Cũng có thể nói rằng, nếu cứ kéo dài tình trạng đó lâu dài, thì chính lãnh đạo mãi mãi vẫn nợ nhân dân món nợ dân chủ, tự do. Và đó là bi kịch buồn thật “vĩ đại”, bởi vì chính nhân dân, chứ không phải ai khác, đã dùng xương máu, mồ hôi để xây dựng nên Nhà Nước “của dân, do dân và vì dân” hiện nay.

Dù sao thì đó cũng chỉ là giả sử lập luận trên đúng thôi. Thật ra lập luận trên cũng không thuyết phục lắm. Vì chính dân trí Việt Nam trước đây so với các nước ngay trong khu vực Đông Nam Á là hoàn toàn không thua kém. So với các nước như Mã Lai, Thái Lan, Inđônêxia, Philippin… tôi cho rằng từ xa xưa, dân trí nước ta nếu không cao hơn thì cũng bằng dân trí của nhân dân các quốc gia trên đây. Trong khi ở các nước đó, từ lâu rồi, mức độ dân chủ của họ cao hơn của nước ta, và hiện nay, dân trí xã hội ta đã tụt hậu khá xa so với họ. Do đó, nói vì dân trí thấp nên chưa thể có dân chủ là không cơ sở. Ngược lại, vì thiếu dân chủ nên giáo dục (và kể cả mọi mặt) của ta đang tụt hậu rất đáng buồn. (đọc bài: “Giáo dục – cho tôi được nói thẳng” của giáo sư Hoàng Tụy). Từ đó dẫn đến dân trí nước ta cũng càng ngày tụt hậu so với các nước ngay trong khu vực và các nước dân chủ, văn minh khác trên toàn thế giới. Vì vậy nếu nói là: “Ở Việt nam ta, vì mức độ dân chủ chưa cao nên dân trí bị thấp so với các nước ngang hàng” thì nghe đúng hơn, thuyết phục hơn.

Nói đến đây tôi xin dẫn chứng đôi dòng để chúng ta liên hệ so sánh mới rút ra được kết luận dứt khoát là: “Thể chế chính trị văn minh, tự do dân chủ sẽ là môi trường và bối cảnh tốt đẹp, đầy thuận lợi để mỗi cá nhân con người phát triển thăng hoa rạng rỡ như thế nào. Ngược lại nếu con người phải sống, phải tồn tại trong hoàn cảnh một đất nước có thể chế độc tài, không dân chủ thì con người sẽ ắt bị thui chột tài năng, thậm chí các quyền con người, quyền công dân bị chà đạp, bị xâm phạm nghiêm trọng…vv…”. Từ đó chúng ta sẽ thấy đời sống dân chủ cho một xã hội vô cùng quan trọng, cần thiết và có ý nghĩa sống còn như thế nào đối với xã hội và mọi công dân.

Chúng ta đều biết trên thế giới ngoài các nước trong hệ thống các quốc gia dân chủ có truyền thống lâu đời như ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Ca na đa, Úc Châu…không kể đến, thì chúng ta còn chứng kiến biết bao các nước khác tuy có nền kinh tế còn chậm phát triển, thậm chí rất nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, có nước còn kém cả Việt Nam. Thế nhưng xã hội và nhân dân nước họ đều đang được hưởng dân chủ, tự do, nhân quyền thực sự, đang từng bước được hoàn thiện và đương nhiên đất nước họ đang hội nhập toàn diện vào sinh hoạt của cộng đồng nhân loại tiến bộ. Trong danh sách các quốc gia này có các nứơc ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La tinh như: Ấn Độ, Philipin, Paksitan, Băngđalet, Nê Pan, Dămbia, Kênia, Nigiêria, Brazil, Argentina….nhiều lắm nhiều lắm không thể thống kê hết. Còn trường hợp của nước Cu Ba XHCN thì sao? Chính Việt Nam ta còn phải viện trợ gạo cho họ để cứu đói, tặng họ máy tính (computer) để góp phần xóa mù thông tin!!!

Lập luận thứ hai là: “Ở Việt Nam ta vẫn có dân chủ chứ, nhưng nhân dân không thể tự lãnh đạo nên Đảng Cộng Sản thay mặt nhân dân lãnh đạo đất nước để thực thi dân chủ cho toàn thể xã hội…”. Điều này thật ra chỉ đúng ở điểm “nhân dân không thể tự lãnh đạo” nhưng lại sai ở rất nhiều các điểm khác rất căn bản.

Ở bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, không làm gì có chuyện người dân tự lãnh đạo quốc gia được. Luôn luôn phải có người đại diện đứng ra để lãnh đạo đất nước. Người này tất nhiên có quyền lực rất lớn (vẫn trong khuôn khổ luật pháp), nhưng trách nhiệm cũng rất nặng. Ta sẽ nhìn nhận bản chất vấn đề này thông qua việc xem xét một vấn đề nhỏ hơn như sự phân tích dưới đây để sáng tỏ thì sẽ thấy rất rõ.

Ở các công ty cổ phần, người chủ thật sự của công ty là Ban Quản Trị. Những người này bỏ vốn (tiền bạc, tài sản…) để thành lập công ty kinh doanh. Vì là một Ban nhiều người nên họ phải chọn ra một người đại diện để lãnh đạo công ty đó. Người được chọn (Tổng Giám Đốc – TGD) là người chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động và kết quả lợi nhuận của công ty. Nhưng TGD không phải là chủ công ty. Chủ thật sự của công ty là Ban Quản Trị. Khi ông ta làm việc không hiệu quả, Ban Quản Trị quyết định họp lại và cách chức ông ta. Điều quan trọng nhất là chỗ này. Người lãnh đạo công ty (Tổng Giám Đốc) hoàn toàn có thể bị chủ nhân của công ty (Ban Quản Trị) sa thải để thay thế vị TGĐ khác tài năng hơn, điều hành công việc làm ăn của công ty có hiệu quả hơn.

Nói ví dụ vậy cho dễ hiểu. Ở một quốc gia cũng tương tự vậy. Nếu mức độ dân chủ đủ cao, thì ông chủ của đất nước là nhân dân, tương tự như Ban Quản Trị của một công ty. Nhân dân bỏ vốn (tài nguyên, trí lực, con người…) và chọn ra người đại diện để lãnh đạo đất nước. Người lãnh đạo này giống như là Tổng Giám Đốc của công ty vậy. Nếu ông này lãnh đạo kém, đưa đất nước tụt hậu thì sẽ bị Nhân Dân thay thế, và chọn người khác, thông qua tự do bầu cử.

So sánh như vậy để thấy rằng, người dân làm chủ đất nước, thì phải được quyền chọn, được quyền bầu ra người lãnh đạo cho họ. Nếu nhân dân không được chọn người thay mặt dân lãnh đạo thì chưa thể là dân chủ mức độ cao được.

Lập luận thứ ba là: “Sau hơn 34 năm thống nhất đất nước, chúng ta đã phát triển về mọi mặt. Và nếu so sánh tình hình nước ta hiện nay với cách đây 34 năm, kết luận rằng đất nước chúng ta đang được ĐCSVN lãnh đạo đi rất đúng hướng, không cần thiết bàn về dân chủ nữa ”…

Đúng và hoàn toàn đúng là hiện nay, đất nước chúng ta có những mặt lớn mạnh hơn 34 năm trước rất nhiều. Nhưng nếu vì vậy mà cho rằng chúng ta đang đúng hướng là không ổn chút nào và khá chủ quan.

Hãy lấy ví dụ để liên hệ so sánh thì lập luận trên đây sẽ khó lòng đứng vững được, chẳng hạn, một đứa trẻ sinh ra, được cho ăn cháo loãng, ăn củ mì, ăn cơm độn bo bo thì đứa trẻ ấy vẫn sống, vẫn lớn lên. Sau 34 năm, đứa trẻ ấy rồi cũng trở thành một thanh niên, và chắc chắn anh thanh niên kia khỏe hơn, lớn hơn chính đứa trẻ đó 34 năm trước. Nhưng không có nghĩa là chúng ta đã nuôi đứa trẻ đúng hướng được!

Một đứa trẻ khác được nuôi đúng hướng, được chăm sóc y tế chu đáo, được cho uống sữa giàu dinh dưỡng, được ăn thịt, ăn cá, ăn đủ chất xơ… Nó còn được giáo dục, được học hành tử tế, nhân cách, phẩm chất đạo đức được phát triển toàn diện có nề nếp. Khi đó, sau hơn 34 năm, bảo đảm đứa trẻ sẽ thành anh thanh niên tuyệt vời hơn anh thanh niên kia rất nhiều. Nói đến đây chúng ta hãy liên tưởng đến một vài các sự kiện gần đây được các cơ quan truyền thông quốc tế, hải ngoại và cả trong nước loan tin khá ấn tượng. Đó là mới rồi sự kiện lần đầu tiên ở ngay tại CHLB Đức thống nhất, trong chính phủ của nữ thủ tướng Angela Merkel đã lựa chọn ông Philipp Roesler 36 tuổi, một thanh niên gốc Việt trở thành Bộ trưởng y tế mà ông này vốn nguồn gốc từ hơn 3 thập niên trước đã được xin về từ trại trẻ mồ côi ở Long Khánh thuộc tỉnh Khánh Hoà (ĐT: Khánh Hưng, Ba Xuyên) khi cha mẹ bé đều đã chết cả vì bom đạn trong chiến tranh. Thế mà, nhờ được sự nuôi dưỡng, chăm sóc y tế, giáo dục trong môi trường tốt, đầy đủ tại nước Đức hùng cường nên tài năng con người này đã được bộc lộ và phát triển đến kỳ diệu như thế đó.

Trường hợp khác là trung tá Lê Bá Hùng, chỉ huy hạm trưởng hải quân Hoa Kỳ rất tối tân với hơn 300 sĩ quan và thủy thủ đoàn thì viên sĩ quan trẻ này cũng chỉ từ một đứa bé lúc 5 tuổi được tầu chiến Mỹ vớt lên trên biển Đông khi cả gia đình anh trôi dạt ngoài khơi sau khi cuộc chiến tại Nam Việt Nam kết thúc sau ngày 30/4/1975. Ấy thế mà cũng chỉ sau hơn 34 năm từ số phận một đứa bé cùng cả gia đình thuyền nhân khốn khổ này tưởng như phải bỏ mạng giữa đại dương thì nay do được nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường một quốc gia thịnh vượng, dân chủ như Hoa Kỳ mà anh đã học hành thành đạt để trưởng thành lên một sĩ quan của hải quân một siêu cường hùng mạnh bậc nhất trên thế giới…vv…

Một trường hợp khác nữa khá danh tiếng, đó là vị dân biểu trong Quốc Hội Liên bang Hoa Kỳ gốc người Việt Nam duy nhất thuộc đảng Cộng hòa – Josheph Cao Quang Ánh của Hạ viện trong nhiệm kỳ hiện nay. Ông hiện là một trong những tiếng nói quan trọng trong cơ quan lập pháp của quốc gia giàu mạnh nhất trên địa cầu. Tên tuổi ông là niềm kiêu hãnh và tự hào lớn lao của cộng đồng người Việt định cư tại cường quốc số 1 này, cũng như của chung những người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới. Ai đâu có thể ngờ rằng, hơn 34 năm về trước vị dân biểu này chỉ là đứa trẻ lên 8 tuổi phải xa gia đình, xa cha mẹ để vượt biển rời miền Nam Việt Nam đi tỵ nạn chính trị. Thế mà sau mấy chục năm được nuôi dưỡng, giáo dục, học tập trong môi trường lành mạnh, đầy đủ tiện nghi nên ông đã trưởng thành vượt bậc để vượt qua biết bao những chính trị gia sừng sỏ, đầy kinh nghiệm, cả những trí thức gốc da trắng lừng danh khác để có mặt trên chính trường nước Mỹ đầy quyền uy như hiện nay…

Còn vô số những trường hợp khác trong cộng đồng người Việt định cư ở hải ngoại đã thành đạt, thành danh trên đủ các lãnh vực từ chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật….không sao kể hết trong khuôn khổ bài viết ngắn này. Chính họ đã làm vẻ vang rạng rỡ truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc ta. Thật đáng tự hào biết bao về con người Việt Nam, về Con Hồng Cháu Lạc! Nói đến các ví dụ này càng thấy rõ vấn đề được nêu lên là đứa trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục thì sẽ có sự phát triển đúng hướng, rất tốt, còn ngược lại chỉ là sự phát triển què quặt trong hoang dã thiếu sự chăm lo, quan tâm vun xới của con người mà thôi. Và từ đó mới thấy rằng các yếu tố lãnh đạo, môi trường, thể chế chính trị của một quốc gia thật vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết như thế nào trong sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và của con người nói riêng.

Vậy, khi muốn xem xét, ta phải xem trên 3 yếu tố:

Một là, trong cùng khoảng thời gian hơn 34 năm, đất nước người ta đã phát triển như thế nào, so với đất nước chúng ta. (chỉ so với các nước trong khu vực thuộc khối ASEAN thôi, không cần so với Nhật, Mỹ, Pháp, Anh…)

Hai là, trong cùng khoảng thời gian hơn 34 năm đó, với tố chất của dân tộc Việt, nếu chúng ta đi đúng hướng, thì chúng ta sẽ phát triển nhanh gấp mấy lần so với thực tế đã qua. Rất đơn giản, chúng ta so tốc độ phát triển trong 10 năm trước đổi mới (1975-1986) với khoảng thời gian sau đổi mới là thấy rõ quan điểm này.

Ba là, với sự phát triển như kiểu hiện nay, ai là người hưởng lợi nhiều nhất. Sự phát triển đó có đồng đều giữa nông thôn và thành thị không? Giữa trí thức và lao động tay chân? Giữa dân thường và cán bộ nhà nước ra sao?

Ba câu hỏi trên thuộc lĩnh vực mà tôi cũng không thể trả lời thỏa đáng được. Cần một nghiên cứu, thống kê, thu thập số liệu ở tầm quốc gia để trả lời. Ở đây, tôi chỉ có ý muốn nói rằng lập luận “sau hơn 34 năm thống nhất đất nước, chúng ta đã phát triển về mọi mặt. Và so sánh tình hình nước ta hiện nay với cách đây 34 năm, kết luận rằng chúng ta đang đi rất đúng hướng” là không thỏa đáng, không chính xác và không thuyết phục lắm.

Tạm kết luận

Khái niệm về “Dân Chủ” là một hình thức xã hội mà “Toàn bộ Quyền Lực nằm trong tay người dân”, tức Người Dân là chủ thực sự đất nước thông qua Tổng tuyển cử tự do trong minh bạch, công bằng và có cạnh tranh lành mạnh.

Một số lập luận không chặt chẽ, dễ gây ngộ nhận và mang tính ngụy biện giả trá. Vì thế rất cần có câu trả lời rõ ràng, khoa học hơn.

Tiến trình dân chủ hóa đất nước ta hiện nay nhất là trong mấy năm gần đay cũng có chút đỉnh tiến bộ và theo hướng tích cực, nhưng quá chậm chạp và không đáp ứng được nhu cầu lành mạnh, chính đáng của đại bộ phận nhân dân trong toàn xã hội. Và tiến trình này cũng không theo kịp các chuyển biến tích cực của bối cảnh quốc tế và trào lưu tiến bộ của thời đại đòi hỏi bức thiết trong quá trình hội nhập của nước ta vào sinh hoạt của cộng đồng quốc tế văn minh tiến bộ. Do đó, tốc độ phát triển của nước ta vừa chậm chạp, vừa không toàn diện, vừa không chắc chắn và không được đảm bảo bền vững lâu dài.

Quyền nổi bật nhất thể hiện cho được một xã hội có “Dân chủ” chính là quyền nhân dân được tự do chọn người lãnh đạo, tự do ứng cử và bầu cử. Khi chưa có quyền này thì mọi chuyện khác đều không có ý nghĩa gì cả.

Nguyễn Đại

Nguồn: Doi-Thoai.com


Ước gì Chính phủ có nhiều Phùng Liên Đoàn…!

29/11/2009

Đọc bài báo của bác Phùng Liên Đoàn, Điện hạt nhân: Bài học từ 127 nhà máy… (Bauxitevietnam, 22.11.2009), mới chợt hiểu ra rằng cái nghề sử nhai lại, ăn theo của tôi, nói cả ngàn câu không bằng một điều bác nói. Tôi chỉ ước ao, giá như các dự án, chính sách của Chính phủ Việt Nam hiện nay cũng tính toán đủ lẽ, đủ mọi đường và nhiều cách như bác.

Cha mẹ giỏi thì đời con đỡ khổ. Lãnh đạo tài thì vận nước hưng vinh. Đó là quy luật của muôn đời. Mushuhito (Meiji) năm 1858, khi ông 19 tuổi, đã đem đến cho nước Nhật sự đổi thay vô tiền khoáng hậu: Một nước mà tài nguyên hầu như chỉ có bão tố và động đất, đúng 100 năm sau (1968) đã làm được như lời thề của ông – Học hỏi phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt phương Tây sau 100 năm.

Bài học của Nhật Bản cũng như bài học từ vở bi kịch nổi tiếng của Sophocles (thế kỷ V tr. CN) – Eudipe làm vua (Eudipus The King), từ Hy Lạp, là bài học về trách nhiệm của nhà lãnh đạo. Nếu thật sự vì dân thì nhà lãnh đạo thời nay hay thời xưa đều phải lo đủ mọi đường, sao cho cuộc sống của người dân tốt nhất cho dù nhà lãnh đạo có bị nhiều mất mát. Cách tính và những gì mà Phùng Liên Đoàn đã đưa ra trước bàn dân thiên hạ là cách lo toan chỉnh chu và nhân văn hết mực. Bác Phùng Liên Đoàn đã lo cho dân (việc làm), lo cho nước (những hậu hoạ và nợ nần vô lý, trong khi có cách thức khác tốt hơn), lo cho cả ngày mai khỏi bất trắc, tai ương…

Tôi đọc mà cứ nghĩ rằng ước gì Chính phủ của ta hiện nay có một vài người (chỉ cần một vài thôi) tâm huyết, nhìn xa, hiểu rộng như Phùng Liên Đoàn trong cách nghĩ về điện hạt nhân. Chắc chắn khi đó vận nước sẽ thay đổi, vì cuộc đời chẳng khác gì một bàn cờ, chỉ tính sai một nước đi thôi, thực tế sẽ là sụp đổ và thảm hoạ. Nếu (xin lỗi nếu tôi hiểu sai) điện hạt nhân là cái bánh ngon và to nhất, chưa từng có bao giờ nên không thể không có, không thể không “ăn”, thì trước khi ăn cái bánh màu mỡ đến mức khó lường ấy, cũng nên tính cho kỹ, cho hết các hậu hoạ – ít nhất là cho đủ “một số đời”. Vì sao nước thì nghèo mà cái gì cũng muốn làm to, hoành tráng, ước vọng thật nhiều bằng gánh nặng nợ nần? Cứ hy sinh tương lai để thoả mãn tham vọng của hiện tại là tư duy theo lối nào? Chẳng có người cha có lương tâm nào sau khi chết lại để một núi nợ và nguy hiểm cho con cái. Đó là nguyên tắc của sự trường tồn. Vẫn biết các nhà lãnh đạo thời nay coi người dân chẳng khác gì những con số, nhưng cứ hoài vọng rất mỏng manh rằng, ít nhất các vị, trong một thời điểm lắng lại nào đó, ở một nơi nào đó, bất chợt nghĩ đến hậu vận nước nhà.

Đã có ai ở Việt Nam đi chui nhủi hết nhà máy điện hạt nhân này đến nhà máy điện hạt nhân khác như Phùng Liên Đoàn hay chưa? Nếu chưa, tại sao không mời về để tham khảo, học hỏi kinh nghiệm? Tại sao lấy cái tư duy từ vai cày để đo cung cách chế tạo xe hơi? Chúng ta cứ bàn, cứ thảo luận về điều mà mình không hề biết rõ, đó là cung cách mà cha ông đã nói: Người mù sờ voi. Một Chính phủ điều hành vận mạng quốc gia mà không hiểu hết những bất trắc khó lường, những gánh nặng kinh tế cuả đất nước thì làm sao có thể đoan chắc được rằng đất nước sẽ mạnh giàu?

Huế, 22.11.2009
H.V.T
HO Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

— –

Điện hạt nhân: Bài học từ 127 nhà máy phải bỏ dở và 10 phương pháp tạo dựng việc làm cho người dân Việt Nam

Phùng Liên Đoàn [1]

Trong quá trình làm việc xây dựng và đánh giá điện hạt nhân tại Mỹ, tôi đã được chứng kiến và đôi khi tham dự sự kiện 127 lò điện hạt nhân với công suất 140,000 MWe được đặt mua, xây dựng, nhưng phải bỏ dở.

Các lò ĐHN là thuộc thế hệ II, loại PWR, BWR, HTGR. Lò loại FBR thuộc thế hệ I còn thử nghiệm. Nhà máy có đánh dấu * là đang xây mà phải bỏ.

Tài liệu tham khảo

Tôi xin đính kèm các tài liệu sau:

Bảng liệt kê 127 lò ĐHN thế hệ II của hơn 50 hãng điện đã phải bỏ giữa những năm 1970-1990. Mỗi lần bỏ như vậy, hãng điện tốn kém giữa 100 triệu USD và 1 tỉ USD, tùy trường hợp còn trong vòng thiết kế hay đã xây dựng dở dang.

Sơ đồ nguyên tắc của ba loại nhà máy ĐHN loại PWR, BWR và LMFBR bị bỏ dở. Tôi đã có cơ hội thiết kế cả 3 loại và đã làm việc với nhiều người có tiếng tăm phát minh hoặc thiết kế các loại lò này.

Hình chụp một nhà máy “thành công” và hai nhà máy bỏ dở của WPPSS (Washington Public Power Supply System.)

127 nhà máy điện hạt nhân bị bỏ dở tại Mỹ

JPEG - 102.2 kb
JPEG - 101.2 kb
JPEG - 118.6 kb
JPEG - 81.9 kb
JPEG - 78.4 kb
JPEG - 72.2 kb
JPEG - 102.9 kb
JPEG - 78.5 kb
JPEG - 117.1 kb
JPEG - 74.7 kb
JPEG - 115 kb
JPEG - 84.4 kb
JPEG - 29.3 kb

(a) Chú thích: Công ty chế tạo và loại lò là như sau:

B&W: Babcock and Wilcox, PWR – nước nén dưới áp suất 150 atm

CE: Combustion Engineering, PWR – nước nén dưới áp suất 150 atm

W: Westinghouse, PWR – nước nén dưới áp suất

GE: General Electric, BWR – nước sôi dưới áp suất 70 atm

DOE, PMC & TVA: LWFBR – loại neutron nhanh, tải nhiệt bằng Na đang ở thời kỳ thử nghiệm (thế hệ I)

Nguyên nhân việc phí phạm ngân sách

Nguyên nhân chính Mỹ phải bỏ dở nhiều nhà máy ĐHN thế hệ II gồm:

Quá tự tin và nghe lời các nhà kinh tế và kỹ thuật “dự đoán” sự cần điện trong tương lai. Họ đều dùng dữ kiện trong 5-10 năm trong quá khứ rồi tích lũy lên cho 10-20 năm trong tương lai. Phương pháp này không bao gồm rất nhiều yếu tố mà họ không biết rõ về khả năng của kỹ thuật và của người dân. Giá điện càng tăng và kỹ thuật càng tân tiến thì người ta dùng càng ít năng lượng. Tỉ số E/GNP của các nước đang mở mang có thể là 2 trong khi càng văn minh thì càng nhỏ lại. Tỉ số này của Nhật và Pháp có thể là 0.8.

Quá tin tưởng vào nguồn năng lượng ĐHN: rất mới, rất to lớn và rất hấp dẫn mà lại không làm ô nhiễm khí quyển.

Không biết rằng có cả trăm ngàn chi tiết của nhà máy cần phải thiết kế đúng chuẩn mực và bị giám sát chặt chẽ – sai một ly cũng không được châm chế; vì thế trong quá trình giám sát, có cả 5,000 – 10,000 chi tiết phải làm lại, gây tốn kém về nhân lực, vật lực, và thời gian.

Không biết sự rắc rối của kiện tụng: quan tòa và luật sư không để ý tới vấn đề thời gian, trong khi đó giá thành của nhà máy ĐHN cứ tăng lên như diều với thời gian.

Khi thương thuyết, không coi trọng sự kiện giá nhà máy là giá loại “mì ăn liền”, nhưng khi xây thì phải trả tiền lãi trên số tiền vay; vì thế, càng xây lâu thì giá “đầu tư” càng cao, trong khi đó kinh tế không thể phát triển liền liền 15% mỗi năm.

Hai nhà máy ĐHN 2 x 1100 MW xây dở dang nằm chết ở Satsop gần thủ đô Olympia của tiểu bang Washington. Hai tháp lớn là dùng để tải nhiệt cho tua bin tạo điện. Hai lò hạt nhân sẽ nằm trong hai nhà vòm nhỏ hơn (chỉ cao khoảng 100m), một vòm còn chưa có mái. Hai nhà máy này tính tốn 6.2 tỉ USD, nhưng sau đó tăng giá thành hơn 12 tỉ, cho nên phải bỏ dở. Hiện nay có một nhà máy đốt hơi khí 600 MW tọa lạc tại đây

Nhà máy ĐHN Bellefonte của TVA tại biên giới ba tiểu bang Alabama, Tennessee và Georgia, 2 x 1235 MWe PWR, cách nơi tôi ở khoảng 150 cây số đã bị bỏ dở 30 năm, sau khi xây cất tốn kém 3 tỉ USD (năm 1980, đáng giá 10 tỉ USD ngày nay). Tôi đã đi thăm nhà máy này khi đang xây cất.

Nhà máy Marble Hill, 2 x 1130 MWe PWR, tại Indiana bị bỏ dở năm 1974, sau khi đã tiêu tốn 2.8 tỉ USD (12.7 tỉ USD ngày nay)

Nhà máy Perry, 2 x 1205 MWe, nằm trên biển hồ Erie cạnh tỉnh Cleveland, tốn kém 6 tỉ USD năm 1994 (8.6 tỉ ngày nay) mà chỉ hoàn thành được một lò. Lò thứ hai, Perry 2, bị bỏ dở. Chính vì thế mà chỉ thấy một tháp làm nguội nước hoạt động.

Vài hậu quả

Mỗi hãng điện của Mỹ trong bảng liệt kê lớn giữa 10,000 MWe–40,000 MWe, nghĩa là tương đương với Điện Lực Việt Nam. Chỉ có hai hãng – WPPSS và TVA (Washington Public Power Supply System và Tennessee Valley Authority) là có tính cách bán công; số còn lại đều là tư. Công ty tôi làm việc có dịch vụ xây nhà máy WPPSS-3, và tôi đã từng chui trong lòng lò Browns Ferry 2 của TVA và Oconee 2 của Duke mà muôn thuở sẽ không ai chui được như vậy nữa vì phóng xạ nay rất cao. Họ đều bị lỗ nặng, và chứng khoán thị trường của họ xuống giá rất thấp giữa những năm 1979-1990 vì họ không có đủ tiền lời để trả cho các cổ đông thành ra người ta đem tiền đầu tư vào nơi khác. Riêng WPPSS, đại diện cho hơn 70 công ty điện nhỏ thuộc loại “làng, huyện” thì lỗ 2.3 tỉ USD (năm 1990, tương đương với 3.8 tỉ năm 2009) , đưa nhiều làng huyện vào tình trạng phá sản. Một ông chánh án phán rằng WPPSS “không có quyền đại diện cho các làng huyện đi vay”, thành ra các làng huyện “không có trách nhiệm”. Sự kiện này đưa tới việc WPPSS phải “phủi nợ” đối với cả trăm ngàn người dân Mỹ cho họ vay nợ, gây một xúc động to lớn dẫn tới hơn 400 vụ kiện cáo. Đến năm 1990, người cho vay không những không có đồng tiền lãi nào mà chỉ còn có thể thu hồi 10% tới 30% tiền của mình. WPPSS phải đổi tên thành Northwest Energy và phải tăng giá thủy điện 40% để trả nợ tới năm 2018 (hơn 46 năm từ năm 1972). Chỉ có mấy ông bà luật sư được béo bở suốt 10-20 năm kiện tụng.

Thế Nhật, Hàn và Đài Loan thì sao?

Các nước này khi bắt đầu làm nhà máy ĐHN thì đã ở trình độ kỹ nghệ cao, dân sinh cao, và đã học được kinh nghiệm của Mỹ. Họ đã xuất khẩu xe hơi (Toyota xuất khẩu từ năm 1960), máy ảnh (máy ảnh Nhật được khắp quốc tế dùng, đè bẹp máy ảnh Đức), đồng hồ (ngang ngửa vói Thụy Sĩ), TV (Sony và Samsung hầu như ai cũng dùng), điện tử (kinh tế Đài Loan năm 1970 gần bằng toàn thể kinh tế trong lục địa có dông dân gấp trăm lần), đóng tàu. Người dân của họ đã có thâu nhập ở trình độ 2000 USD (Hàn), 3000 USD (Đài Loan), 8000 USD (Nhật) ở thập kỷ 1970-1980. Không nước nào có nhiều tài nguyên năng lượng và không nước nào xuất khẩu nguyên liệu thô như than, bauxite, gỗ. Họ cần năng lượng, họ có hạ tầng cơ sở, và người dân họ được ăn học nhiều hơn người dân ta.

Hoàn cảnh nước ta

Trong hoàn cảnh hiện tại, nước ta thu nhập bình quân đầu người chưa đạt được 800 USD. 70-80% người dân còn sống rất lam lũ trong những căn nhà lẹp xẹp, không có điện, không có nhà vệ sinh. Ta nhập khẩu toàn vật dụng kỹ thuật cao, như máy móc, xe hơi, xe gắn máy, máy ảnh, TV, máy điện toán, điện thoại cầm tay, thức ăn uống đắt tiền, ngay cả xăng dầu. Trong khi đó ta xuất dầu thô, gạo, cà phê, gỗ, than, bauxite. Ngân sách của ta năm nào cũng nhập siêu, nếu không có đô la của các nước cho vay và của Việt kiều gửi về thì ta không thể có nếp sống phồn hoa giống như ta chứng kiến ở Hà Nội và Sài Gòn. Đáng buồn và đáng hổ thẹn nhất là hầu hết thanh niên thanh nữ ta đều muốn “xuất ngoại”; cả triệu phụ nữ ta mong muốn lấy chồng ngoại quốc mà không biết sẽ bị đối xử như tôi đòi; và cả triệu thanh niên thanh nữ của ta cầm nhà cửa đất đai để “được” đi “xuất khẩu lao động” rồi bị tư bản chèn ép như nô lệ. Trong bối cảnh đó, ta nên xét lại làm cách nào gây thêm nội lực để tạo hạnh phúc và lòng tự tin cho người dân ta, cho con cháu ta.

Điện hạt nhân Việt Nam

Một chương trình làm nhà máy điện hạt nhân như dự kiến từ nay tới năm 2020 sẽ đưa đất nước đi sâu vào sự hãnh diện giả tạo, bởi vì hầu như 100% nhân lực cao cấp, vật liệu cao cấp, thiết bị cao cấp, ngay cả nhiên liệu hạt nhân và sự xử lý nhiên liệu thì ta đều phụ thuộc vào nước ngoài, không dùng đến trí tuệ Việt Nam. Ngay cả tiền đầu tư ta cũng phải đi vay. Tôi cầu mong những nhà làm chính sách của ta nên nghĩ rằng khi nhà máy ĐHN xây xong thì chúng ta phần lớn đã già hoặc đã chết. Chúng có sản xuất điện không thì ta không biết, nhưng số tiền to lớn 20-30 tỉ nợ nần thì con cháu ta sẽ phải trả hoặc sẽ phải cầu khẩn quốc tế “giảm nợ.” Xưa kia, tôi thường nghe những người đi vay nợ ở làng quê năn nỉ người giàu có: ”Cụ cứ cho cháu mượn đi, sau này nếu cháu không trả được thì cái ‘út’ nhà cháu lên hầu cụ để trừ nợ!” Chẳng lẽ ta muốn hoàn cảnh tương tự xẩy ra cho con cháu ta trong tương lai, hoặc bắt chúng đào xới nguyên liệu thô của quốc gia đem bán, hoặc xuất khẩu cả 5 –10 triệu thanh niên thanh nữ của ta đi làm tôi mọi cho người trên thế giới?

Đứng về phương diện quốc phòng, trước tình hình hòa bình bấp bênh với các nước láng giềng, một hệ thống nhà máy ĐHN sẽ là mục tiêu đầu tiên bị phá hoại, và sẽ bị phá hoại rất dễ. Trong trường hợp đó, không những việc bảo vệ tổ quốc bị yếu hẳn đi, mà ví dụ có hòa bình vãn hồi thì kinh tế của ta cũng bị thui chột nhiều chục năm.

Ngân sách phiêu lưu cho điện hạt nhân có thể dùng tạo điện nội hóa và tạo công ăn việc làm cho nhiều triệu người dân

Nhưng ta có nhiều phương pháp thực hiện đầy đủ điện cho người dân trong tương lai mà chưa cần đến nhà máy ĐHN. Ngoài những dự án thủy điện và điện từ than đá có sẵn, ta có thể phát triển những phương pháp quản trị điện nhạy bén hơn và sử dụng điện thông minh hơn. Ta cần dùng các phương pháp rất Việt Nam, với trí tuệ và vật lực Việt Nam, nhân bản hơn, nhanh chóng hơn, và rẻ tiền hơn dự án ĐHN. Trong một bài phỏng vấn, tôi đã đề cập 10 phương pháp như sau:

1. Tránh mất điện vì dây điện nhỏ và chằng chịt. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để mắc nối lại hệ thống phân phối điện chằng chịt ở Hà Nội, Saigon, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn thể các thành phố. Dùng dây điện có điện trở thấp (nghĩa là to hơn, tốn tiền hơn) và khuyến khích như vậy trong cả triệu căn nhà. Hiện ta mất mát điện khoảng 11% vì hiệu ứng Ohm (nhiều hơn nếu tính sự mất điện trong cả triệu nhà vì dây điện quá nhỏ), trong khi các nước Âu Châu và Mỹ chỉ mất khoảng 6% và Israel chỉ mất khoảng 3%. Với phương pháp này ta cũng tránh được nhiều nạn cháy chết người và thiệt hại tài sản lớn. Ta cũng tạo được nhiều trăm ngàn công việc cho người dân.

2. Dùng đèn neon loại mới. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để mua bóng đèn neon (loại neon mới không cần phải hình ống) hoặc lập xưởng chế tạo bóng đèn neon rồi bán rẻ cho người dân. Việc này sẽ tiết kiệm khá nhiều điện trong vòng 1-3 năm và người dân sẽ nhẹ gánh hơn khi giá điện liên tục gia tăng. Củng sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều trăm ngàn người.

3. Sử dụng máy điều hòa không khí hữu hiệu hơn: Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp các công sở và nhà tư có máy điều hòa dùng cửa sổ có hai lớp kính và bịt kín các lỗ hổng để máy làm lạnh không khí dùng ít điện thôi mà không ảnh hưởng tới khí hậu mát mẻ. Chỉ mua mới các máy lạnh có dùng “ống dẫn nhiệt” (heat pipe) do một người Việt là Đinh Khánh chế tạo (http://www.heatpipetechnology.com), lấy hơi nước trong không khí ra trước việc làm lạnh không khí, và như vậy tốn ít điện hơn. Các công tác này sẽ giúp tạo rất nhiều dịch vụ kinh tế và công việc cho cả triệu người.

4. Dùng nhà máy than tốt hơn. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để khuyến khích và đặt giải thưởng cho cán bộ và công nhân các nhà máy đốt than học hỏi cách điều hành với năng suất 90%-95%. Đầu tư thiết bị tẩy SOx và hút bụi trước khi cho khói tuôn ra ống khói. Tôi không tin có người nói “ta phải nhập khẩu than.” Báo cáo mới nhất của tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn cho biết ta quản lý mỏ than rất kém, “được 3 mất 7”. Một tỉ tấn than sẽ giúp ta có 8000 MWe nhà máy chạy liền 30 năm, ngang ngửa với 8000 MWe ĐHN, như vậy điện do các nhà máy than này sẽ rẻ hơn ĐHN nhiều, mà than là nguyên liệu của ta, giúp tránh phải dùng 50 tỉ USD ngoại tệ. Phương pháp này giúp tạo công ăn việc làm cho cả triệu người tại mỏ than, tại nhà máy, trên các tầu chở than, và tại các bến bốc than.

5. Quản lý thủy điện tốt hơn. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để sửa sang các đập nước, huấn luyện người điều hành về dự toán thời tiết, huấn luyện họ cộng tác với nhau, vét sâu hồ chứa nước, tu bổ phương pháp ngăn ngừa, điều hành lũ lụt và giúp đỡ người dân có biện pháp phòng vệ nước lũ ở hạ nguồn. Đồng thời tăng gia trồng rừng trên thượng nguồn. Việc này sẽ tránh được những thiệt hại xả lũ năm 2009 và gây thêm hạnh phúc cho người dân sống gần đập nước. Việc này cũng tạo công ăn việc làm cho nhiều chục ngàn người và huấn luyện cho chuyên viên của ta nhạy bén hơn về truyền thông, thực hiện công nghệ, và bảo vệ môi trường.

6. Dùng phương pháp trữ điện tại các đập nước. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN nghiên cứu việc lập các hồ dự trữ điện tại các đập nước (phương pháp này gọi là pumped storage) để vừa tránh sự cố lũ lụt, vừa làm tăng lợi ích giữa ngày và đêm của các đập nước. Như vậy ta vừa tránh lũ lụt cho người dân vừa tạo thêm công ăn việc làm tại các đập thủy điện.

7. Tìm kiếm khí đốt. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để thăm dò và phát triển khí đốt bằng phương pháp khoan ngang ở nhiều độ sâu, với mục đích tìm nhiều hơi khí như mới phát triển vài năm nay tại Mỹ. Việc này sử dụng tốt trí tuệ Việt Nam, kích thích giáo dục áp dụng vào đời sống quanh ta, và giúp phát triển từng địa phương. Kỹ nghệ dùng khí đốt sẽ tạo công ăn việc làm cho cả triệu người.

8. Sản xuất điện ở tầm nhỏ. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp từng địa phương tìm cách tạo điện và nhiên liệu ngay ở địa phương của mình. Nếu làm nhỏ ở địa phương thì mạng lưới điện sẽ bền vững hơn và đường dây 500 KV Bắc Nam có công dụng hơn. Hiện ta có làm nhưng quản lý chưa tốt. Nhưng ta nên có phương pháp thống nhất chia sẻ kiến thức và nêu cao tinh thần minh bạch để các lỗi lầm do tính tùy tiện được giảm thiểu. Ta nên khuyến khích người dân đóng góp ý kiến theo tinh thần của Pháp Lệnh Dân Chủ mà Quốc Hội đã ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2007.

9. Tiết kiệm than củi và nấu cơm bằng gió. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN giúp người dân dùng bếp ít tốn than củi giống như ở Trung Quốc. Dùng các quạt gió nhỏ để thắp sáng ban đêm. Tôi nghĩ, tuy trên thế giới chưa thấy nói, nhưng trí thức của ta có thể thí nghiệm dùng các “chong chóng nhỏ nhưng quay suốt ngày đêm cộng với một dynamo (giống xe đạp) rồi trữ điện vào một bình điện (giống như bình điện xe hơi)” và như vậy người dân quê có triển vọng nấu cơm bằng gió! Thế giới chưa làm vì họ dùng rất nhiều điện, trong khi người nghèo của ta sẽ sử dụng tốt khi chỉ có một bình điện nhỏ “trời cho” mỗi ngày. Kỹ nghệ “chong chóng điện” sẽ rất Việt Nam và lợi cho kinh tế Việt Nam. Việc này sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều triệu người.

10. Áp dụng chính sách phân biệt giá điện. Dùng vài phần trăm tiền nhà máy ĐHN để có các phương pháp và thiết bị thực hiện chính sách dùng càng nhiều điện thì giá điện càng cao; dùng điện ban ngày thì đắt hơn dùng điện ban đêm; dùng điện sản xuất thì rẻ hơn dùng điện ăn chơi. Như vậy là điều hòa tốt việc sản xuất điện không lên xuống quá mức, khuyến khích không phung phí điện và người giầu dùng nhiều điện thì phải trả nhiều hơn người nghèo. Chắc Việt Nam đã có chính sách này nhưng tôi không có dữ kiện. Căn bản thông suốt trong các phương pháp tôi đề nghị là chính phủ chỉ nên làm chính sách, còn các chi tiết thì phải để thị trường tiếp tay. Ta cần cách quản lý tốt dựa trên sức mạnh và sự khéo léo của sự cạnh tranh với kỷ luật thanh liêm, công bình và minh bạch. ĐHN là một kỹ thuật không biết tha thứ những người và những quốc gia xử dụng nó không đến nơi đến chốn. Ta không nên chơi sóc đĩa với tương lai của con cháu ta mà xác suất rất cao là ĐHN sẽ không thương tiếc sự hối hận của ta.

Chú thích

1. Ông Phùng Liên Đoàn, 70 tuổi, là Tổng Giám đốc Công ty tư vấn Professional Analysis, Inc. (PAI) tại Mỹ, chuyên môn về các dịch vụ nguyên tử và môi trường. Ông Đoàn đã từng là cố vấn cho Bộ Năng Lượng (Department of Energy-DOE) và Cơ Quan Giám Định Luật Lệ Hạt Nhân (Nuclear Regulatory Commission- NRC) của Mỹ. Ông đã tham gia thiết kế 4 nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) và viết hơn 100 khảo cứu và phúc trình về sự an toàn và giá thành của ĐHN so với các nguồn tạo điện khác. Ông cũng đã tham gia tẩy uế phóng xạ tại 10 trung tâm nguyên tử khắp nước Mỹ, cùng là khảo cứu hiện tượng hâm nóng khí quyển do việc sử dụng năng lượng toàn cầu. Ông là đồng tác giả tài liệu WASH-1400 về sự an toàn của 100 nhà máy ĐHN của Mỹ mà cả thế giới đã noi gương; và sách The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power, Praeger Publishers, New York, tiên đoán sẽ có sự phục sinh của ĐHN. Ông Đoàn tốt nghiệp cử nhân toán và vật lý tại đại học Florida State University, thạc sĩ vật lý và nguyên tử tại Massachusetts Institute of Technology (MIT) và tiến sĩ nguyên tử tại MIT. Ông Đoàn đã từng làm việc tại Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân Đà Lạt, 1964-1967. Ông Đoàn và gia đình đã bỏ hầu hết tiền để dành và tiền hưu để làm việc từ thiện ở Việt Nam.

2. Về vấn đề Điện hạt nhân tại Việt Nam, ông Đoàn đã có những ý kiến sau:

o Giảm thiểu 15 rủi ro của nhà máy điện hạt nhân, http://www.bauxitevietnam.info/c/15546.html

o Điện hạt nhân sẽ tăng gấp ba, http://www.bauxitevietnam.info/c/17478.html

o Đừng sợ nhà máy điện hạt nhân nguy hiểm, hãy lo con cháu ta mắc nợ dài dài, http://www.bauxitevietnam.info/c/18007.html

o Phỏng vấn: Điện hạt nhân không phải là chuyện để đua đòi, http://bauxitevietnam.info/18107/dien-hat-nhan-khong-phai-la-chuyen-de-dua-doi/

o Phỏng vấn: 10 phương pháp không cần ĐHN mà vẫn giúp Việt Nam tăng thêm nội lực, http://bauxitevietnam.info/18186/10-phuong-phap-khong-can-dien-hat-nhan-ma-van-giup-viet-nam-tang-them-noi-luc/

3. Nguyễn Thành Sơn: “Ngành than sau 15 năm phát triển – “được” 3 “mất” 7″, http://bauxitevietnam.info/17870/nganh-than-sau-15-nam-phat-trien-duoc-3-mat-7/

Hà Văn Thịnh – Đại học Khoa học Huế
HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập


Chiến Lược Hồn Nhiên

22/11/2009

Ban biên tập web VT: Tiết mục “Làng Dân Báo” sẽ giới thiệu thường xuyên đến quý độc giả những bài viết đa dạng từ các cây viết bloggers. Đây là những trăn trở chân thực và “ngoài luồng” của quần chúng Việt Nam.

Xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết “Chiến Lược Hồn Nhiên” của blogger Đinh Tấn Lực:

http://dinhtanluc.multiply.com/journal/item/508/508


“Dưới gầm trời này, chẳng có đất nào không là đất của thiên tử” – Ngạn ngữ Trung Hoa.

Mật Lệnh Của Anh Ba

Chuyện kể quanh bàn nhậu: Năm 1977, anh Ba ra lệnh cho BCH TƯĐ: “Phải gấp rút lên phương án sản xuất để đến năm 1980, mỗi nhà đều có một tủ lạnh”. Ngay sau đó, anh Ba lại ra lệnh: “Phải có kế hoạch sản xuất thêm cho mỗi nhà một tivi”. Đầu năm 1979, anh Ba đích thân hối hả đến xí nghiệp Nghĩa Tận, hạ mật lệnh: “Đóng gấp cho nhân dân mỗi người một áo quan! Ưu tiên hàng đầu là bộ phận nhân dân ở Tây Nam và Chính Bắc”.

Ba thập kỷ sau, gần cuối năm 2009, rừng đã kiệt mà áo quan vẫn chưa đóng đủ. Cháu anh Ba bèn tính kế khác: Phát động Dân Quân Tự Vệ Biển.

*

Từ Nước Đôi Tới Tay Đôi

Ngày 24/1/2007, Ban chấp hành Trung ương đảng đã ra Nghị quyết về “Chiến lược biển VN đến năm 2020”. Theo đó, “Đến năm 2020 phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53-55% GDP, 55-60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước”.

Tháng 4/2007, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ yêu cầu VN đình chỉ việc phân lô, gọi thầu và hợp tác với Tập đoàn Dầu khí BP của Anh trong tiến trình xây dựng đường ống khí đốt ở Trường Sa. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao VN long trọng trả lời: “VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Cuối năm 2007, Quốc vụ viện TQ ban hành quyết định thành lập huyện Tam Sa, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Thanh niên sinh viên Việt Nam biểu tình phản đối trước sứ quán và lãnh sự quán TQ tại VN. Lựa chọn ứng xử của đảng và nhà nước ta là huy động công an các thứ ra giải tán/đàn áp/bắt nguội sinh viên/thanh niên/dân oan/bloggers. Tháng 4/2008, nhà nước CHXHCNVN tổ chức trọng thị và an toàn cuộc rước đuốc Olympic Bắc Kinh bằng một khung cảnh Sài Gòn rực cờ TQ, bất kể bản đồ TQ trên bích chương Thế vận hội 2008 bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta. Món quà Thế vận hội nhà nước ta trao tặng Bắc Kinh (để chuộc tội sinh viên biểu tình trước sứ quán TQ mấy tháng trước đó?) là bản án “thiếu thuế” của blogger Điếu Cày.

Tháng 7/2008, TQ xác nhận đã chính thức yêu cầu Cty Exxon Mobil của Mỹ phải ngừng khai thác dầu với Việt Nam ngoài biển Đông, vì lý do TQ coi đó là vi phạm lãnh hải của TQ. Phản ứng câm lặng của VN đã khiến Exxon Mobil quyết định cuốn gói.

Ngày 7/5/2009, TQ trưng bản đồ 9 vạch hình lưỡi bò và tuyên bố trước Liên hợp quốc: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa”. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao của ta vẫn tiếp tục ấp úng/cà lăm trong các buổi họp báo thường kỳ (tại Hà Nội): “VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Giữa tháng 5/2009, Trung Quốc ra thông báo từ 12g ngày 16-5-2009 đến 12g ngày 1-8-2009 tất cả các tàu cá VN đều không được vào vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc trở lên để đánh bắt cá.

Ngày 4/6/2009, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã giao thiệp với đại sứ TQ Tôn Quốc Tường, “Đề Nghị phía TQ không có các hoạt động cản trở hoạt động bình thường của ngư dân VN tại ngư trường truyền thống của VN”.

Ngày 11/6/2009, Chủ tịch Hội Nghề Cá VN Nguyễn Việt Thắng đã lên mặt báo để động viên Ngư Dân Hãy Yên Tâm Đánh Bắt, và kiến nghị Chính phủ ta phản đối lệnh cấm của TQ.

Giữa tháng 6/2009, hải quân TQ đã bắt giữ và công khai đòi tiền chuộc (tổng cộng 210 ngàn nhân dân tệ) đối với 37 ngư dân huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, khi họ đang thực hiện hoạt động đánh bắt bình thường ở khu vực quần đảo Hoàng Sa của ta, với lý do “xâm phạm lãnh hải Trung Quốc”. Đòi tiền chuộc chính là hành vi/thủ đoạn của khủng bố/hải tặc/giặc cướp. Đảng và nhà nước ta phản ứng ra sao? Ông Nguyên (ở Úc), một độc giả của RFA, nêu thắc mắc: “Trên thế giới này có nhà nước nào nói là độc lập tự chủ, mà lại khuyên ngư dân của mình là khi đi biển thì phải thường nên liên lạc và tự bảo vệ cho nhau, và khi có gì xảy ra thì phải mau mau cứu lấy nhau?…”.

Giữa tháng 7/2009, tái hiện tình hình Tàu “lạ” lại thường xuyên xuất hiện với vận tốc cực nhanh, đâm chìm tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, khiến nhiều người bị thương. Trước đó, suốt từ tháng 5, tháng 6, là các vụ tàu “lạ” đâm chìm tàu cá của ta. Những thông tin lược kết các bài trên báo về hiện tượng tàu “lạ” có thể chỉ còn lại bản lưu.

Cũng trong tháng 7/2009, TQ phong tỏa ngư trường, ngăn chận ngư dân VN đánh bắt trên vùng biển lưỡi bò. Theo người phát ngôn bộ Ngoại giao TQ Tần Cương: “Việc cấm đánh bắt cá ở khu vực biển Nam Trung Hoa là một biện pháp hành chính thường lệ và hợp lý của Trung Quốc”. Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh QH khóa XII Lê Quang Bình đã long trọng nhấn mạnh: “Những người dân đi đánh bắt cá trên biển phải biết được mình hoạt động trên vùng biển nào”!

Ngày 28/9/2009, 7 chiếc tàu đánh cá của hơn 200 ngư dân Quảng Ngãi chạy vào trú bão tại đảo Trụ Cẩu, thuộc quần đảo Hoàng Sa, bị hải quân TQ bắn đuổi đi. Hai ngày sau, tan bão, họ lại bị 1 chiến hạm TQ mang ám số 1312 ngăn chận, lục soát, cướp bóc, đánh đập dã man. Phản ứng của chính quyền CHXHCNVN ra sao? Hội Nghề Cá Việt Nam đã ra văn bản kịch liệt phản đối và yêu cầu Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ đạo các lực lượng hải quân TQ chấm dứt ngay và không lặp lại các hành động ngăn cản, cướp phá tài sản, đánh đập ngư dân Việt Nam khi họ vào đảo để tránh, trú bão.

Đầu tháng 10/2009, Đại sứ VN tại Bắc Kinh Nguyễn Văn Thơ đánh giá cao ngày Quốc Khánh TQ trên đài phát thanh quốc tế TQ (China Radio International-CRI): “Đây là niềm tự hào của nhân dân Trung Hoa, cũng là niềm tự hào của các nước châu Á trong đó có Việt Nam…”.

Giữa tháng 10/2009, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đoàn Xuân Hưng trả lời phỏng vấn đài CRI: “Quan hệ giữa hai nước chúng ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quan hệ tốt đẹp nhất trong lịch sử quan hệ chúng ta”.

Cuối tháng 10/2009, trả lời câu hỏi của VietNamNet về việc đẩy mạnh các hoạt động dân sự. tại các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, Phó đô đốc Tư lệnh quân chủng hải quân nhân dân VN Nguyễn Văn Hiến, nói: “Đây là quyết định chính xác, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bởi chủ quyền đến đâu, chúng ta bảo vệ quân sự đến đó”.

Cụm từ khóa của chủ trương này là: Dùng Hoạt Động Dân Sự Để Bảo Vệ Quân Sự.

Vẫn cuối tháng 10/2009, thông qua kỳ họp QH, đảng CSVN và nhà nước CHXHCNVN ban hành chủ trương “Lập dân quân tự vệ biển để giữ chủ quyền biển đảo”. Chủ nhiệm UB Quốc phòng-An ninh QH khóa XII Lê Quang Bình nhấn mạnh quyết tâm “phát triển tốt hơn lực lượng dân quân, tự vệ biển, làm nòng cốt bảo vệ người dân trên biển”.

Cụm từ khóa của chủ trương này là: Lực Lượng Nòng Cốt Bảo Vệ Người Dân Trên Biển.

*

Chọn Lựa Ứng Xử Bạo Động

Thử bước đầu tìm hiểu động cơ nảy sinh chủ trương ứng xử bạo động nói trên?

Một trong những kết luật rất đáng quan tâm của Hội Thảo về Biển Đông do Học viện Ngoại giao tổ chức ngày 17/3/2009 là: “TQ làm rất tốt công tác nghiên cứu, quảng bá, chuẩn bị dư luận, đây là ‘cuộc chiến không cân sức’ của VN”, cho dù các địa danh Tây Sa và Nam Sa chỉ xuất hiện từ năm 1909 trên các tài liệu của Trung Quốc. Ngược lại, ta từng xác định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa từ nhiều thế kỷ trước, nhưng cho tới nay vẫn chưa có nổi một chiến lược biển toàn diện và một bộ luật chủ quyền (vì mãi lo làm luật ổn định?).

– Ta không đủ văn bản/dữ kiện nghiên cứu về biển đảo như TQ, cho nên lo ngại kết quả vụ việc tranh chấp có hiệu năng không cao chăng? Rõ là phải tính mánh khác!

Theo GS Ramses Amer, đại học Stockholm: “Ngay cả khi đã ra tòa án quốc tế và có phán quyết, theo lý thuyết, nếu một bên từ chối thi hành phán quyết của tòa, vấn đề có thể được chuyển lên cho Hội đồng Bảo an LHQ xử lý. Với xung đột biển Đông, vụ việc sẽ đi vào bế tắc bởi TQ với tư cách thành viên thường trực HĐBA sẽ dùng quyền phủ quyết”… Còn AESAN? Hãy nhớ rằng “Quan hệ của họ với Trung Quốc quan trọng hơn với Việt Nam”. Và TQ vẫn cố bẻ đũa từng chiếc, để tạo ảnh hưởng song phương (để có nhiều ưu thế) hơn là đa phương.

– Ta không thấy có nhiều ánh sáng ở cuối đường hầm quốc tế hóa vụ việc như mình mong đợi chăng? Rõ là phải tính mánh khác!

Theo Wikipedia: “Phương châm 16 chữ vàng là Láng giềng hữu nghị-Hợp tác toàn diện-Ổn định lâu dài-Hướng tới tương lai, do chính lãnh đạo Trung Quốc đưa ra, xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt–Trung trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung-Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới”… “cũng như đẩy nhanh hơn tiến độ triển khai các Thỏa thuận, Hiệp định hợp tác giữa hai nước, và trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm”.

– Lãnh đạo ta bị TQ trói cả tay lẫn chân, bịt cả mắt lẫn miệng, bằng 16 chữ vàng và nhiều ngân phiếu của ngân hàng Thụy Sĩ rồi chăng? Rõ là phải tính mánh khác!

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Công an toàn quốc hôm 22/12/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu ngành công an trong năm 2009 phải chủ động “không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, khủng bố”.

– Ta không dư dôi bộ đội và công an để lo mặt biển của Tổ Quốc (trong lúc mặt nạ của lãnh đạo đang trên đà rơi gia tốc) chăng? Rõ là phải tính mánh khác!

Vẫn theo lời Chủ nhiệm UB Quốc phòng-An ninh QH khóa XII, nguyên Trưởng ban Dân Nguyện thuộc Uỷ ban thường vụ QH khóa XI Lê Quang Bình: “Năm 2010 là năm nhiều sự kiện chính trị quan trọng của đất nước: ĐH Đảng các cấp tiến tới ĐH Đảng toàn quốc, kỷ niệm các ngày lễ lớn. Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng cơ hội này tăng cường chống phá, làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, vô hiệu hóa sự quản lý của nhà nước… Hai là vấn đề biển Đông đang có diễn biến phức tạp. Do đó, cần phải tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở biển Đông, nhất là lợi ích của người dân đang hằng ngày hoạt động đánh bắt cá trên biển”.

– Thế là rõ: Quân đội và công an là lực lượng nòng cốt cần dồn sức tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ đảng và mục tiêu ổn định chính trị trên đất liền. Còn dân quân tự vệ biển là lực lượng nòng cốt bảo vệ người dân và chủ quyền đất nước trên biển.

Đảng ta đã từng chọn chủ nghĩa và lịch sử cho dân tộc. Nay, chỉ chọn thêm giải pháp!

Vẫn ngoài mặt hòa hoãn nước đôi. Còn đằng sau đánh lén tay đôi. “Tiền Lễ Hậu Binh”. Vừa êm với giặc. Vừa mị được dân. Chết dân nhưng còn đảng. Tại sao không?

Cốt Lõi Của Giải Pháp?

Đây là phiên bản tân trang của chiến lược dân công/du kích thời đánh Tây/chống Mỹ. Tên gọi chính thức là “Chiến Tranh Nhân Dân”, với cội nguồn tuyên truyền kích động cơ bản là lòng căm thù của nhân dân đặt trên những bản tin/chuyện kể không có thật. Anh hùng thiếu nhi Lê Văn Tám của ta, không cần vào bộ đội, cũng từng làm đuốc sống đốt rụi kho xăng/đạn Thị Nghè. AK47 của dân quân tự vệ ta đã từng bắn B52 của địch rơi như vãi trấu. Út Tịch nhà ta đã chẳng từng (tay không mang bầu tám tháng vào cướp đồn) đánh tới còn cái lai quần, cũng đánh đó sao?… Chuyện xưa đã thế. Chuyện nay phải hơn thế: Tất cả công an và bộ đội (hải/lục/không quân) của ta đều nhất loạt biến thành anh hùng Núp (bok Núp/all Núp), nhằm bảo vệ tuyệt đối nền an ninh/ổn định chính trị cho cả nước. Còn nhân dân sẽ “tự phát” nhận lãnh sứ mệnh lịch sử là tự bảo vệ lấy sinh mạng, sinh kế, gia đình, đất nước, và cả chủ quyền thiêng liêng của quốc gia.

Nước ta từng được đảng ta mô tả là nổi tiếng về tiền rừng bạc biển. Tiều phu (và lâm tặc) ta không lên rừng đốn cây nhặt củi thì chủ quyền rừng thuộc về ai? Ngư dân ta không ra biển đánh cá và đánh giặc thì chủ quyền biển sẽ thuộc về ai? Nay mai sẽ tới phiên bọn trẻ mục đồng thả diều lại vinh quang nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ chủ quyền không phận nước nhà nữa, không chừng! Ta đã chẳng từng bảo “Dân đi trước – làng nước theo sau” đấy phỏng? Ta đã chẳng từng có Dân Phòng/Dân Vệ là gì? Ta đã chẳng từng reo hò “Vũ khí tối tân không bằng toàn dân ra trận”, hay, “Thóc không thiếu một cân, dân không thiếu một đứa”… đó sao?

– Nhất định thế! Dân không thiếu một đứa! Về cơ bản, thế là xong.

Còn, cụ thể ra, giải pháp này sẽ bao gồm nhiều hạng mục thực hiện: 1- Dựng chòi canh biển cho xã đảo và ngư trường
Mục tiêu rõ ràng: Nhất định phải phát hiện ra từng thằng giặc biển. Phải tự nguyện xây dựng chòi canh biển như ta đã từng di dân khai/phá các vùng kinh tế mới hồi thế kỷ trước. Phải tự nguyện chia ca thức/ngủ để canh gác hòa bình trên biển.

Hậu cần giản dị: Thực phẩm đã sẵn có hải sản các thứ tại chỗ. Báo chí lề phải đừng dại dột/cảm tính/láu cá mà phát động các phong trào mang ánh sáng ra chòi canh biển. Ta cần núp vào bóng tối để phát hiện địch (như MIG của ta núp vào mây để bắn tỉa B52 xưa kia), nên không thể thắp sáng để địch phát hiện (đi không dấu, nấu không khói, nói không ồn).

Tuyên truyền chắc cú: Lịch sử ta đã có những Khúc tráng ca nhà giàn, nay, sẽ tăng cường thêm những Khúc tráng ca về chòi canh biển.

2- Trang bị vũ khí cho ngư dân:

Một khi đã xác quyết “Chúng ta nhất định giành chiến thắng!”, thì nguyên tắc cốt lõi là “Cần nhiều dân không cần nhiều súng”. Mỗi ngư dân một khẩu súng là lý tưởng, nhưng thực tế ra, mỗi thuyền thúng một khẩu súng cũng đã quá thừa để giữ chủ quyền trên biển?

VN ta có tổng cộng 28 tỉnh ven biển gắn với quốc phòng, an ninh biển, đảo. Theo thống kê của Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng, VN ta hiện có gần 9.000 tàu/thuyền đánh cá với hơn 63.000 người hoạt động trên biển (tương đương với 6 sư đoàn bộ binh). Đông nhất là Vũng Tàu với gần 3.000 tàu thuyền (hơn 13.000 người), Quảng Ngãi gần 1.600 tàu thuyền (hơn 12.000 người). Trong số gần một vạn ngư thuyền đó, số tàu có công suất máy nhỏ hơn 90 mã lực chiếm tới 84% tổng số tàu lắp máy trong toàn quốc.

– Chốt lại, tối đa là chỉ cần trang bị sáu vạn súng ống cho ngư dân. So với 1 con SU hay 1 tàu ngầm mà đảng và nhà nước đang đặt hàng, thì ngần đó súng ống chỉ là …số lẻ.

3- Phủ sóng khẩu hiệu cho toàn dân: ”Nhiệt liệt chào mừng Ngư Dân – lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển đảo VN”;
“Tất cả vì chủ quyền thiêng liêng – Tất cả vì biển Đông máu thịt”;
”Ngư dân Việt quyết giữ chủ quyền biển đảo Việt”;
”Nâng pháp lệnh Dân Quân Tự Vệ Biển lên thành luật là một bước tiến tích cực để hoàn tất sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước”;
”Thực hiện tốt Luật Dân Quân Tự Vệ Biển là tích cực góp phần vào việc xây dựng sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước”;
”Tích cực chủ động bảo vệ biển đảo, sẵn sàng phát hiện địch quân kịp thời và có hiệu quả”;
”Vũ khí chỉ là phù du – Tinh thần mới là sức mạnh”;
”Ngư dân quyết tử cho biển đảo quyết sinh”;
“Canh ngày không đủ, tranh thủ gác đêm”;
”Ngư dân VN quyết hoàn thành xuất sắc sứ mạng bảo vệ chủ quyền biển đảo”;
”Dân ở chòi vinh quang như Bác ở hang”;
”Không có gì sướng bằng Tay súng-Tay dầm”;
”Thà mất mạng không để mất lưới”;
”Đi biển hào hùng hơn đi lính”;
”Cá ta đánh bắt – Giặc ta phát hiện”;
”Ngư dân VN kiên quyết phát hiện, ngăn chặn và đẩy lùi bọn giặc cướp chủ quyền biển đảo”;
”Ngư dân phải canh gác chủ quyền biển đảo như gìn giữ con ngươi của chính mình”;
”Công an gắn liền với đường phố – Quân đội gắn liền với doanh trại – Ngư dân gắn liền với chòi canh”;
”Ngư dân yếu thì biển đảo mất – Ngư dân mạnh thì biển đảo còn”;
”Ngư dân quyết tâm thực hiện có hiệu quả Chiến lược Dân Quân Tự Vệ Biển vì sự gìn giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam”;
”Còn ngư dân là còn chủ quyền biển đảo”;
”Di dân ra biển đảo là tích cực thực hiện định hướng về yêu nước”;
”Ngư dân VN quyết tâm giương cao ngọn cờ Độc lập Dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền đất nước”;
”Tuổi trẻ VN sống, lao động, học tập, chiến đấu, đánh cá và đánh giặc theo gương sáng các lão ngư dân xông pha giữ gìn chủ quyền biển đảo nước nhà”;
”Một chòi ngã xuống, ngàn chòi mọc lên”;
”Quyết tâm thực hiện xuất sắc Đại Đoàn Kết Ngư Dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, và Bảo Vệ Toàn Vẹn Chủ Quyền Đất Nước”;
”Toàn dân tích cực hưởng ứng Ngày Ngư Dân Giữ Biển”;
”Xây dựng Hội Nghề Cá VN vững mạnh là trực tiếp góp phần bảo vệ chủ quyển biển đảo VN”;
”Toàn dân quyết tâm xây dựng lực lượng nòng cốt ngư dân bảo vệ chủ quyền biển đảo VN”;
”Ngư dân VN quyết tâm ra sức rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo… trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc”;

4- Chuyển loa phường cả nước ra các chòi canh biển để địch vận:
Phát nhạc Tàu, đọc xã luận tiếng Tàu, liên tục hô vang khẩu hiệu tiếng Tàu:
”Đi lính là chết vô ích”;
”16 chữ vàng muôn năm/vạn tuế!”;
”Dùng vũ lực là đi trái lề văn minh nhân loại!”;
”Ăn gian là nhục! Ăn hiếp là hèn!”;
”Hảo hán không xài đại liên”;
”Phá chòi canh là thiếu tinh thần xây dựng”;
”Dùng tàu ngầm là thiếu tinh thần minh bạch”;
”Bắn đại bác là thiếu tinh thần thượng võ”;
”Ủi sập chòi, đâm chìm ghe… là thiếu tinh thần hữu hảo”;
”Láng giềng cưỡng hiếp láng giềng là ngang ngược xóa sạch phương châm 4 tốt”;
”Giết ngư dân Việt cũng bằng chém cha tổ phụ A.Q. của chúng mày”;

5- Nhiệm vụ của Tuyên Giáo TW:
Cốt lõi là bịt mồm phản biện. Nhưng, cụ thể sẽ bao gồm nhiều mũi nhọn hoạt động:

Một là, sau khi nâng pháp lệnh lên thành luật “Dân quân tự vệ biển – Lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền thiêng liêng trên biển của Tổ quốc”, phải khẩn nghiên cứu để đưa luật này vào Hiến Pháp 2010. Ghi luôn cả khẩu hiệu khuyến khích di dân ra biển đảo nữa, cho chắc bắp. Hai là tổ chức hội thảo liên tục về chủ đề “Ngư dân và Nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo”. Liên tục đưa ra các khuyến nghị/phân tích/kết luận về tính đúng đắn của chủ đề và được đông đảo dư luận đồng tình.

Ba là khẩn đúc kết kinh nghiệm trong tranh chấp ở vùng biển Tây Nam vào những năm 80 của thế kỷ trước, khẩn soạn thảo/kiểm tra/biên tập lại toàn bộ tài liệu/cẩm nang hỏi đáp Những điều ngư dân cần biết trong hoạt động thuỷ sản trên trang mạng cpv.org.vn, sao cho thích nghi với tình thế mới/tiêu chí mới là: giặc bớt giận, dân thôi kêu. Đồng thời gấp rút nghiên cứu dự án Dạy tiếng Trung cho Lực lượng Nòng cốt Gìn giữ Chủ quyền Biển đảo Thiêng liêng của Tổ quốc.

Bốn là nghiên cứu/đề xuất/tổ chức/tuyển chọn nhân sự vào những cơ chế trực thuộc TW dùng để điều hành/chỉ huy/kiểm tra các đơn vị dân quân tự vệ biển, đặc biệt là để kiểm kê vũ khí đạn dược và chế tài việc lạm dụng vũ khí cho mục đích cá nhân hoặc gây thiệt hại cho tài sản XHCN.

Năm là nghiên cứu/đề xuất ra các loại huy chương/huân chương/kỷ niệm chương và các hình thức khen thưởng cho ngư dân xả thân bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Sáu là quy hoạch/tổ chức “chòi canh mẫu trên biển” để tập huấn và quay phim phóng sự.

Bảy là phát động thi đua liên tục về tìm hiểu biển đảo và đặt vè động viên phong trào Ngư dân bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Tám là: Đưa biển, đảo vào môn giáo dục quốc phòng, song song với các dự án Đưa sân golf ra đảo xa.

Chín là tổ chức trọng thị và an toàn, sau đó, tuyên truyền rộng rãi về những chuyến tham quan bất ngờ và chớp nhoáng của lãnh đạo các thứ, theo gương nhà thơ Trần Đăng Khoa từng kể chuyện về những lần tướng Giáp Văn Cương bí mật đột nhập lên đảo thăm lính.

6- Nghĩa vụ của Thông Tin-Truyền Thông:
Chính yếu là tụng ca chính sách, nhân rộng mô thức Lã Thanh-Kiu trên cả nước.

Đóng nút Facebook thành Fakebook xong rồi lần lượt tới YouTube, Flickr… và các mạng liên kết xã hội còn lại.

Khai trương tờ báo in/báo online “An Ninh Đại Dương” trên mạng CAND.com.vn, và tờ báo trực tuyến “Ngư Trường Trù Phú” thuộc mạng Công Thương mot.gov.vn.

Thực hiện bộ phim nhiều tập “Tầm Nhìn Xuyên Sóng Cả” để tuyên dương nếp sinh hoạt của ngư dân trên các chòi canh biển chung quanh những “cái giọt máu dưới ngầu ngầu bọt sóng” (như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng mô tả các đảo chìm).

Phục hồi phong trào “Trong Thơ Có (lưới) Thép” – Mỗi thi nhân là một nhà quân sự/nhà hàng hải/nhà thiên văn/nhà khí tượng.

Đẩy mạnh chiến dịch phổ thơ thành nhạc theo chủ đề “Ngư Dân Anh Hùng và Vận Nước Nổi Trôi”, hoặc, vắn tắt là “Ngư Dân và Vận Nước”. Triển lãm ký họa/nhiếp ảnh/điêu khắc về chủ đề “Dáng Đứng Chòi Canh Tạc Vào Thế Kỷ”.

Phóng tác thành sách những anh hùng/liệt sĩ “Yết Kiêu Thời Đại”. Đặt hàng/triển khai những loạt phóng sự/bút ký tương tự như đoàn tàu không số chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam thời trước. Tổ chức những chuyến nữ học sinh/sinh viên ra khơi thăm biển đảo. Tổ chức dịch vụ Du Lịch Chủ Quyền Biển Đảo VN theo mô thức du lịch sinh thái trong bờ.

Tổ chức thi hoa hậu dân quân tự vệ biển.

*

Khắc Phục Mọi Khó Khăn!

Tạm thời liệt kê những khó khăn cần khắc phục trước mắt, theo dạng hỏi-đáp:

Làm sao cho nhân dân, đặc biệt là ngư dân, hoàn toàn ủng hộ chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo?

- Phải giáo dục nhân dân cho tới khi quán triệt về quan điểm/chủ trương Quốc Phòng Toàn Dân của đảng ta. Luật Dân quân tự vệ Biển chính là để hiện thực hóa chiến lược quốc phòng toàn dân, tận dụng sức dân (thay sức lính) để bảo vệ tổ quốc. Nói cách khác: Ở đâu có dân, ở đó có lực lượng vũ trang quần chúng, làm cho cả đất nước Việt Nam thành trận địa “thiên la địa võng” bao vây quân địch, kể cả ngay giữa trùng khơi.

Tàu cá của ta có súng có thể bị tàu nước khác nghi nhầm là cướp biển (kiểu Somali)?

- Không đáng lo. Chủ nhiệm UB Quốc phòng-An ninh QH khóa XII Lê Quang Bình đã tiên liệu: “Khi trang bị phải có giấy chứng nhận để đảm bảo cho họ có quyền giữ vũ khí mà tránh nhầm lẫn là cướp biển”. Có khi còn phải ghi mẫu giấy chứng nhận này vào bộ nguyên tắc ứng xử biển Đông cho mọi bên đều nhận diện cho rõ nữa cơ! Nếu “Trung với đảng” là phải đánh tan mọi nghi vấn về đảng cướp đêm/cướp ngày, thì, nguyên tắc “Hiếu với dân” không cho phép chúng ta để cho địch nghi nhầm ngư dân ta là cướp sông/cướp biển!

Tổ chức đội ngũ nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển ra sao?

- Đó là tiểu đội, trung đội hay đại đội do mỗi huyện quyết định tùy thuộc vào tình hình cụ thể. Nếu đã là cấp đại đội thì phải có ban chỉ huy, có chỉ huy trưởng, chỉ huy phó, chính trị viên… Có các tổ, các đội. Ví dụ, mỗi đội tàu có một tổ vừa lo đánh cá, vừa lo bảo vệ. Có sự phân chia và phối hợp. Ví dụ, trong mỗi vùng biển, mỗi tổ đánh cá ở một khu vực tọa độ nhất định. Khi bị tấn công, tổ đó vừa liên hệ với trong bờ, vừa có phối hợp với tổ khác để bảo vệ.

Làm sao ngư dân sống được trong điều kiện “Lều bạt chung chiêng giữa nước giữa trời/ Đến một cái gai cũng không sống được”?

- Thi sĩ thần đồng Trần Đăng Khoa đã cường điệu trong thơ ca thế thôi, chứ trên thực tế, cứ ngoái nhìn vào đội ngũ sửa lấp đường Trường Sơn thời đánh Mỹ trước đây, thì sẽ thấy ngư dân Trường Sa ta thời nay có dư khả năng khắc phục những điều kiện sống khắc nghiệt nhất, kể cả trên thuyền cá hay trên chòi canh biển. “Khó vạn lần dân liệu cũng xong” mà lị!

Thiếu tướng Bùi Sỹ Trinh, Chính ủy Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng), từng nhận định: “Hiện tượng ngư dân Việt Nam sang vùng biển của các nước đánh bắt hải sản và bị các lực lượng nước ngoài bắt, phạt tiền không giảm. Vẫn còn hiện tượng tranh chấp ngư trường, trộm cắp ngư lưới cụ trong vùng đánh cá chung Vịnh Bắc Bộ và các vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và các nước lân cận…”. Làm sao chấm dứt hiện tượng này?

- Phải giáo dục ngư dân ta thêm nữa thôi, không có cách nào khác.

Làm sao ngư dân biết chính xác vị trí tàu mình trên biển để tránh xâm nhập vào những vùng biển đang tranh chấp?

- GS Carl Thayer có nói: “Để trang bị các dụng cụ tối tân như hệ thống định vị cũng như các vũ khí cá nhân đòi hỏi rất nhiều ngân sách. Trong giai đoạn này ít nhất hàng trăm triệu đô la phải bỏ ra cho ngư dân mà điều này tôi tin là rất khó thực hiện”. Carl không thể rõ ta định trang bị loại/hiệu/đời súng nào cho ngư dân! Tuy nhiên, ta vẫn phải giáo dục rốt ráo ngư dân mình thôi. “Yêu cầu đặt ra là phải nắm vững pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế; tuyên truyền cho ngư dân, các tầng lớp nhân dân nắm chắc đường lối chủ trương của Đảng; đồng thời đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch…”.

Khi nào thì dân quân tự vệ được phép nổ súng?

- Dự Luật cho phép dân quân tự vệ, trong đó có dân quân tự vệ biển, được quyền nổ súng trong 3 trường hợp: Trường hợp thứ nhất, có lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh quân khu và tương đương hoặc người chỉ huy các cấp được ủy quyền khi làm nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu. Trường hợp thứ hai, khi làm nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu, tuần tra bảo vệ biên giới, biển đảo phát hiện được địch ở mặt đất, trên biển hoặc trên không. Trường hợp thứ ba là đang thực hiện nhiệm vụ gìn giữ an ninh trật tự, an toàn xã hội và thực hiện quyền phòng vệ chính đáng.

Tàu của địch có súng lớn không?

- Các đoàn tàu Ngư Chính đều là chiến hạm cải trang. Ta không rõ họ được trang bị ra sao vì chưa được giải ngân cho các dự án điệp vụ/nghiên cứu. Chỉ nghe qua lời kể của ngư dân ta là “các tàu lạ có cả súng hai nòng lớn lắm y như là trên xe tăng đó! Nó phủ bạt che hết nhưng súng to lắm!”.

Liệu là một vụ nổ súng tự vệ hay vô ý cướp cò của dân quân tự vệ biển có trở thành lý cớ cho một cuộc chiến tranh quy mô giữa 2 nước không?

- Đó là một mối lo sâu xa và có cơ sở, tuy nhiên, với đường lối đối ngoại “mềm dẻo” trong cung cách “giao thiệp” của ta, có nhiều khả năng là lãnh đạo bên đối phương sẽ thông cảm cho vị thế bắt buộc/chính đáng phải tự vệ của ngư dân ta. Tư lệnh hải quân của ta “đã đặt thẳng vấn đề với tư cách là những người trên biển với nhau, (rằng) ngư dân của chúng tôi rất nghèo nên các ngài phải đối xử nhân đạo… Tuyệt đối không được bắn, không đánh chìm tàu của dân (nghèo)…”. Họ nói rằng họ cũng rất thông cảm. Bằng không, ta sẽ lặp lại lần nữa, rằng “VN có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý …”.

Tương quan lực lượng trên biển giữa ngư dân ta và hải quân địch thế nào?

- Đó là một tương quan không cân sức, cho dù là ta chưa biết hết sức mạnh quân sự thật của hải quân “bạn”. Tuy nhiên, đừng quên rằng “Lòng yêu nước nồng nàn là vũ khí” và, “Vũ khí tối tân không bằng toàn dân ra trận”, cứ nhìn vào tương quan quân đội của ta và Mỹ ngày trước, tất sẽ thấy rõ nguyên tắc cốt lõi vẫn là “Cần nhiều dân không cần nhiều súng”. Chính lòng căm thù và tình yêu nước của “Những người dũng cảm trong bóng tối” mới quyết định chiến thắng.

Ngư dân ta có e ngại việc mang súng lên tàu đánh cá sẽ là mối nguy hiểm không lường cho sinh mạng của họ không?

- Một ngư dân từng bị hải quân Trung quốc cướp, đánh đập và bắt giam cho biết: “Nói chung bây giờ họ giao súng em cũng không dám đâu, tàu của họ có súng hai nòng lớn lắm nếu có gì thì họ bắn chết”. Tuy nhiên, nhiều phần có thể nhận định này xảy ra là vì ta chưa giáo dục/tuyên truyền/động viên đúng mức ngư dân của mình về chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc đó thôi! Những tác phẩm văn học nghệ thuật của ta về các trận chiến đánh Tây, chống Mỹ, diệt Khờ-me đỏ, và chống trả TQ trước đây đã lột tả/xiển dương/chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta từng vượt qua tất cả các nỗi sợ. Sau chòi canh, chúng ta sẽ dựng tượng đài trên biển.

Trước đây ta từng gặp tình trạng Tàu cứu hộ cứu nạn ra biển đứng chờ nạn nhân đi kiếm họ, còn tàu cá phải tự dò tìm các chiếc tàu bạn bị chìm và tự cứu vớt đồng nghiệp, cả người lẫn xác. Lắm khi thuyền thúng phải đi vớt người tàu cá. Ta khắc phục thế nào?

- Tình trạng xảy ra là vì tàu cứu hộ của VN không được vào vùng biển đó. Vừa rồi Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đi thăm Cộng hòa nhân dân Trung Hoa để “trao đổi kinh nghiệm, thắt chặt quan hệ, góp phần củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt Việt Nam – Trung Quốc”. Hy vọng từ đó ta sẽ cứu hộ dân ta dễ dàng hơn.

Trước đây ta cũng đã gặp tình trạng: “Tàu đặc chủng, lẫn máy bay trực thăng nào mà vuợt hàng trăm cây số để cứu anh em trong lúc trời biển cùng hiệp đồng tạo trận cuồng phong? Vĩnh biệt các thủ trưởng. Vĩnh biệt đất liền… Đó là những bức điện cuối cùng mà Sở Chỉ huy Quân chủng nhận được…”. Liệu là trong tương lai có gặp lại tình trạng đó nữa không?

- Khó biết được, tuy nhiên, chúng ta cũng đã có nhiều lúc nhiều nơi các ghe đánh cá tự cứu hộ cho nhau và đưa các nạn nhân vào bờ. Dân cứu dân thì khỏi phải “vĩnh biệt thủ trưởng!”.

Về “Ngày Ngư Dân Giữ Biển”, Thiếu tướng Võ Trọng Việt, chính ủy Bộ Tư lệnh Biên phòng, ủy viên Ủy ban Quốc phòng-An ninh QH cho rằng: “Nên lấy ngày mà Bác Hồ thăm hải quân (30/3/1959) để nói về biển, để tất cả chúng ta suy nghĩ và hành động, thì sẽ sớm khắc phục được khó khăn hiện nay”, có nên chăng?

- Bác đã một đi không trở lại, còn tuổi trẻ ngày nay không quan tâm nhiều về lịch sử thời của bác, thậm chí còn nghi ngờ các nhìn nhận của thế hệ trước. Còn hải quân ta thì đã thành một đám đông anh hùng Núp. Ngư dân mới là vai chính. Vai trò nòng cốt gìn giữ chủ quyền đất nước của ngư dân có được là nhờ QH. Vậy nên lấy ngày QH thông qua luật Dân Quân Tự Vệ Biển làm ngày Ngư Dân Giữ Biển là chính danh toàn vẹn.

*

Tản Luận Về Hư Chiêu?

Chiến lược Dân Quân Tự Vệ Biển, dù đã trưng qua QH và đã định hướng khắc phục khó khăn như trên, vẫn khiến lắm người hoang mang về các ý niệm “hư chiêu” nảy sinh đây đó:

Hư chiêu 1: Tàu phù gợi ý cho lãnh đạo ta nâng cấp pháp lệnh thành luật dân quân tự vệ biển để chờ 1 vụ cướp cò làm cớ khai hỏa? Xem ra xác suất không cao, bởi chính TQ cũng không thực sự chủ trương châm ngòi chiến tranh khu vực, đặc biệt là giữa những nhà nước XHCN hiếm hoi còn sót lại hôm nay.

Hư chiêu 2: Lãnh đạo ta thử nghiệm nước cờ “đánh dứ” để dò xem phản ứng bọn Tàu? Kể cũng khó, bởi phản ứng đó đã có sẵn/chưa thể quên: Từ đầu năm 2005, hải quân TQ đã bắn giết ngư dân Hòa Lộc (Thanh Hóa) rồi kéo xác về Hải Khẩu (đảo Hải Nam). Phát ngôn của Bộ ngoại giao TQ Khổng Tuyền bấy giờ tuyên bố rằng: Cảnh sát biển TQ đã “bắn chết một số người có vũ trang, bắt một tàu và tám người khác cùng vũ khí, đạn dược và ngư cụ”. (Không khác gì nhà nước ta chỉ bắt giam người vi phạm pháp luật chứ không bắt người bất đồng chính kiến!).

Hư chiêu 3: Lãnh đạo ta vừa mới coi bộ phim Thủy Chiến (thời nhà Minh) của điện ảnh TQ chiếu trên kênh HTV7, và muốn triển khai thành chính sách “Thương bang nuôi Ngư dân hải chiến thay cho triều đình”? Không hẳn, bởi đó là phim TQ thì Bắc Kinh chủ động đã phải nắm vững đối sách hơn ta học lóm.

Hư chiêu 4: Hà Nội tiến hành một thí điểm trong điện ảnh vẫn gọi là “đóng thay vai chính” (stuntmen) để rút kinh nghiệm cho hải quân VN? Hiệu ứng có thể thấy trước: Lãnh đạo ta thí điểm ngư dân cầm súng thì giặc cũng thí điểm bằng đoàn chiến hạm Ngư Chính để xem chủ trương của ta có thật thế không.

Hư chiêu 5: Ta thử nghiệm kế sách “Lính lẩn vào Dân-Lấy dân làm Mộc”? Cái khó là ngư dân ta chả dại: Tới lúc xảy ra sự cố, Bắc Kinh đòi phải giải quyết, nhà nước ta buộc phải “xử lý ở mức độ dân sự” các dân quân tự vệ biển về tội “cướp cò, gây thiệt hại trầm trọng…”, cho đẹp lòng các “Trên của Trên”, để giữ chặt ổn định mối giao hảo mọc rễ trên 16 chữ vàng, thì biết lấy ai nuôi vợ con?

– Luận gì thì luận. Thực hư gì cũng mặc. Làm cho nó tưởng là ngư dân mình có súng, thì: 1. là nó bùm trước cho chắc cú; 2. là nó kiểm tra khả năng bóp cò của ta xem có thật hải quân giả dạng ngư dân không; 3. là nó khạc đại bác/đại liên thử coi dân quân tự vệ mình “điếc không sợ súng” tới đâu. Đằng nào ngư dân cũng …chết chắc!

*

Chủ Quyền = Thế + Lực?

Thế yếu của VN là chính trị chư hầu. Lực yếu của VN là quân đội co rút. Không mấy ai nghe tin tàu lạ tấn công tàu cá của Phi, phải chăng vì chính phủ Phi ít “mềm dẻo” hơn ta?

GS.TS Trần Ngọc Thêm nói không sai: “Hãy thừa nhận một điều không phải lúc nào sự lãnh đạo của Đảng cũng đúng. Nhiều vụ việc trong quá khứ đã chứng minh điều đó, như vụ đấu tố, vụ khoán…”. Gần đây, lãnh đạo ta đã quyết định tự kéo tụt cả thế lẫn lực của VN (dẹp biểu tình/rước đuốc Olympic/câm nín trước mọi cưỡng bức… và cả tư túi tiền ngoại bang đấm mõm). Lý do chính yếu: Bắc Kinh không phải thuộc diện thế lực thù địch? Tàu lạ đánh đập/bắn giết/bắt cóc ngư dân đòi tiền chuộc cũng không phải thuộc diện thế lực thù địch?

Hai năm rõ mười:

Lãnh đạo Hà Nội lệ thuộc vào Bắc Kinh. Đường dây nóng chỉ để nhận lệnh thiên triều. Đảng bất lực trước Tàu. Đảng bất lực trên biển. Đảng tự tạo ra tình trạng vô chính phủ. Đảng tự đánh mất thế và lực cần thiết để khẳng định quốc thể và chủ quyền. Đảng chính là giặc nội xâm. Đảng tự ý xác nhận và khuếch đại tính nhược tiểu cho cả dân tộc. Đảng “bán cái”. Đảng không luyện binh nhuệ, đảng chỉ cần dân đông. Đảng quyết định “giao họa cho dân”. Đảng “thí điểm” ngư dân. Đảng làm luật tử hình tập thể ngư dân…

Dân đánh cá biển – Đảng đánh cá cược?

Trong một bài phỏng vấn mới đây về trận đánh hỏa công ở Long An thời kháng Pháp, Lão họa sĩ Hoài Nam đã kể lại:

“Đó là một trận đánh hồn nhiên. Khoảng năm 1945 khi tôi gia nhập Đội Thiếu niên tiền phong Thủ Thừa – Long An. Lúc này Pháp mượn cớ giải giáp Nhật để chiếm lại nước ta. Tôi bàn với các đội viên bày binh bố trận theo lối “hỏa công Xích Bích” trong Tam Quốc: Kết ghe thuyền lại với nhau, cắm cọc dưới đáy sông, rồi lợi dụng hướng gió, dùng hỏa công đánh tàu Tây trên sông. Kết quả là… thảm hại vì tàu giặc bằng sắt thép, hỏa lực lại mạnh. Bọn tôi người bị bắn, người bị bắt. Tôi trốn được lên Sài Gòn sống vất vưởng…”.

Hơn nửa thế kỷ sau trận đánh hồn nhiên đó, đảng CSVN lựa chọn cho nhân dân VN một Chiến Lược Hồn Nhiên khác: Lực lượng nòng cốt giữ gìn chủ quyền biển đảo VN là Dân Quân Tự Vệ Biển. Quốc hội ta cũng đang hồn nhiên thông qua. Hồn nhiên xác quyết đường lối Thậm Hèn Với Giặc-Cực Ác Với Dân!

Mọi chất vấn hay góp ý, nếu có, xin cứ hồn nhiên gửi về: Chủ nhiệm UB Quốc phòng-An ninh QH khóa XII Lê Quang Bình Số 26 ngõ 34A Trần Phú, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội.

20-11-2009 – Kính mừng Ngày Nhà Giáo/Chào đón các nhà chòi
Blogger Đinh Tấn Lực


Không thể xuyên tạc yêu nước thành “Diễn biến hòa bình”

19/11/2009

Trung Quốc ngang ngược quyết định thành lập đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa. Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam một lần nữa lại lên tiếng phản đối yếu ớt bằng một lời lẽ hết sức ngoại giao rằng như thế là “vi phạm chủ quyền Việt Nam”.Phía Việt Nam cho rằng hành động này của Trung Quốc là “không có lợi cho quá trình đàm phán, tìm kiếm biện pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề trên biển giứa hai nước”.

Việt Nam khẳng định quần đảo Hoàng Sa, nơi mà Trung Quốc đang chiếm giữ và vừa tuyên bố thành lập đơn vị hành chính uỷ ban thôn đảo Vĩnh Hưng và Triệu Thuật là thuộc chủ quyền Việt Nam. Việt Nam mong muốn được giải quyết hoà bình theo luật biển quốc tế.

Quyết định của Trung Quốc ban hành ngay khi tổng thống Mỹ vừa kết thúc chuyến thăm và làm việc tốt đẹp với họ.

Các cá nhân quan chức cao cấp nhất trong lãnh đạo Việt Nam trước sau như một, chưa cá nhân nào bày tỏ rõ chính kiến về chủ quyền, lãnh thổ đất nước trước những sự xâm phạm của Trung Quốc. Trái lại từ tổng bí thư đến thủ tướng và các uỷ viên Bộ Chính Trị đều bày tỏ quan hệ ngoại giao giữa hai nước là “hoàn toàn tốt đẹp, bền vững muôn đời”.

Bởi vậy hành vi xâm chiếm, bắn giết và chiếm giữ ngang ngược của chính quyền Trung Quốc với lãnh thổ Việt Nam được gọi nhẹ nhàng là “vi phạm chủ quyền’’. Một hành đồng xâm lược ngang nhiên đã bị nhẹ nhàng hoá, đơn giản như việc tranh chấp nhỏ giữa hai địa phương của hai nước.

Sở dĩ nhà cầm quyền Việt Nam không muốn tỏ ra mạnh mẽ trước hành động của Trung Quốc là do nhiều yếu tố đưa đến. Những yếu tố này bị chi phối vì những quyền lợi của chính thể Việt Nam, do đó chúng được diễn giải với nhân dân bằng cụm từ “nhạy cảm, tế nhị’’.

Trong 4000 năm lịch sử của đất nước và dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên và duy nhất một chính thể cầm quyền coi việc ngoại bang xâm chiếm chủ quyền đất nước là việc “tế nhị, nhạy cảm’’?. Những quyền lợi ở đây cụ thể là ghế ngồi trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng Công Sản Việt Nam, những chiếc ghế này được củng cố bởi sự tác động của Trung Quốc. Đó là điều mà tại sao chưa có uỷ viên Bộ Chính Trị Đảng CSVN nào dám khảng khái lên tiếng. Mà sự việc chỉ đẩy cho phát ngôn viên Bộ ngoại giao phát lời như một cuộn băng ghi sẵn, một cái máy nói không hơn.

Một trong những nguyên nhân nữa là tâm lý của người dân Việt Nam, ít nhiều sự tự trọng về chủ quyền đất nước còn rất thiêng liêng và cao cả. Đặc tính này là do lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành và còn tồn tại đến ngày nay.

Nhưng tâm lý cao thượng này của những người Việt Nam yêu nước lại được những nhà cai trị Trung Quốc bóp méo để nhắc nhở, răn đe nhà cầm quyền Việt Nam đó là mầm mống của “diễn biến hoà bình’’, có nguy cơ xoá sổ cả chính thể cầm quyền là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trung Quốc còn vạch ra những ý kiến phản đối hành động bạo ngược của Trung Quốc là âm mưu nhằm làm tổn hại quan hệ hai nước, gây chia rẽ và gây cô lập nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Chính thể cầm quyền tại Việt Nam đã cụ thể hoá lời chỉ bảo của Trung Quốc bằng những hành động trấn áp, bắt bớ những người bày tỏ ý kiến trong vấn đề chủ quyền này bằng những tội danh như “trốn thuế’’ với blogger Điếu Cày, tội “gây rối trật tự công cộng” với những thanh niên, sinh viên tham gia biểu tình phản đối. Tội “tuyên truyền chống phá nhà nước’’ với nhóm 6 người của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa vừa bị kết án tù mới đây. Tội “xâm hại lợi ích quốc gia’’ của 3 blogger trẻ vừa qua. Trước đó nữa là bản án dành cho luật sư trẻ Lê Chí Quang, người đã lên tiếng về hiểm hoạ xâm lược của Trung Quốc từ rất lâu với bài “Hãy cảnh giác với Bắc Triều”. Loại bỏ trang web của nhà văn Đào Hiếu, sa thải blogger, phóng viên Huy Đức……

Phía Trung Quốc đã chơi một ván bài cực kỳ thâm hiểm đẩy những nhà lãnh đạo Việt Nam vào thế khó khăn. Nhượng bộ chủ quyền đất nước hay là phải đối phó với con “ngáo ộp’’ nguy hiểm mà Trung Quốc đã vẽ ra cho lãnh đạo Việt Nam thấy. Con ngáo ộp có tên “diễn biến hoà bình’’ được Trung Quốc chỉ bảo rằng do thế lực phương Tây, đặc biệt là Mỹ đứng đằng sau chỉ đạo.

Điều khôi hài là trong khi nhà cầm quyền Việt Nam đang nỗ lực đối phó với những ý kiến mạnh mẽ khẳng định chủ quyền đất nước của người dân, trước hành vì xâm chiếm của người hữu hảo láng giềng bị gọi là nguy cơ “diễn biến hoà bình do Mỹ giật dây’’ thì Trung Quốc ngồi sẵn ở nhà đợi Mỹ đến đàm phán, mặc cả về những quyền lực phân chia trên thế giới ở một số khu vực.

Trung Quốc đã từng đẩy Việt Nam lên tuyến đầu của phe CNXH thử lửa với đế quốc Mỹ trong những năm 60, 70 của thập kỷ trước. Để rồi họ âm thầm tiếp ngoại trưởng Mỹ bắt đầu một mối quan hệ có lợi cho họ, để Trung Quốc âm thầm phát triển trong khi Việt Nam chỉ được cái danh hão tiền đồn của CNXH đánh bại đế quốc.

Có lẽ Việt Nam lại lần nữa là tiền đồn trong việc chống và phá tan âm mưu “diễn biến hoà bình của đế quốc Mỹ’’. Và khi nhìn lại, người “anh em” Trung Quốc lúc nào giờ đã thực sự thành một đế quốc tham tàn mang đúng bản chất như cái tên “chủ nghĩa đế quốc mang màu sắc đặc sắc Trung Quốc’’.

Giờ đây người Trung Quốc không phải lo lắng trước sự phản ứng của Việt Nam trước sự xâm chiếm của mình. Người Trung Quốc chỉ ung dung dùng kế sách của Tôn Tử là hàng ngày chỉ cho lãnh đạo Việt Nam thấy những nguy cơ của diễn biến hoà bình đang tiềm ẩn bên trong như đất đai của nông dân, tôn giáo, tài nguyên khai thác, những người bất đồng chính kiến, ý kiến của các nhà trí thức, cựu tướng lĩnh quân đội, sinh viên, thanh niên… để những nhà lãnh đạo Việt Nam có mối bận tâm khác lớn hơn là chủ quyền lãnh hải.

Bởi thế, với lực lượng nhân lực và tài lực hùng hậu, nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tuyên truyền thành công khiến cho nhiều người dân ngộ nhận những việc làm của một số người Việt Nam yêu nước chân chính là “diễn biến hoà bình’’ là chủ ý của các thế lực thù địch. Và vẫn bị phủ dụ nhẹ nhàng hành động xâm lược của Trung Quốc chỉ là “vi phạm chủ quyền’’ ở mức độ nhỏ không ảnh hưởng đến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước “anh em”.

Những toan tính quy chụp cho những người dân yêu nước, chỉ vì họ mạnh mẽ đòi hỏi việc xác nhận chủ quyền đất nước của nhà cầm quyền Việt Nam là cực kỳ dối trá và trắng trợn, được xây dựng một cách bài bản có hệ thống. Được dựng lên bởi một bộ máy và những lãnh đạo có nghề được đào tạo và rèn luyện kỹ. Khai thác nhiều yếu tố tâm lý của đám đông quần chúng nhân dân từ lâu đã bị chi phối và lệ thuộc vào các phương tiện truyền thông nhà nước.

Đặc biệt những tuyên truyền viên của ban tuyên huấn đi tận cùng các ngõ ngách, chị bộ cơ sở địa phương để thuyết giảng những nội dung được hoạch định kỹ càng với chiêu bài “nói chuyện với cơ sở’’. Cách nói chuyện nửa bí mật, nửa công khai như là chia sẻ với cán bộ cấp cơ sở đạt ít nhiều hiệu quả. Người ta dễ dàng thấy những cán bộ hưu trí đi họp chi bộ về, nét mặt quan trọng, khi hỏi đến đầy vẻ hiểu biết nói về quan hệ Việt- Trung, lãnh thổ bằng những luận điệu như “việc chia đất với Trung Quốc rất phức tạp, vì đó là nước lớn, mình phải khéo léo để giành được cái mình muốn. Xu thế bây giờ là đối thoại chứ không đối đầu. Những hành động nóng vội, kêu gào, đòi hỏi là do bọn xấu muốn lợi dụng để khích động bạo loạn, hoặc là do một số người thiếu hiểu biết, thiếu thông tin dẫn đến như vậy…’’

Rõ ràng một chiến dịch nhằm bôi nhọ và xuyên tạc những tấm lòng yêu nước đang được phát động một cách tinh vi, sâu rộng trong nhân dân dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng chung quy vẫn là mục đích dập tắt những ý kiến khác chiều, để tập trung tư tưởng của nhân dân một cách tuyệt đối dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, thâu tóm được ý chí và tư tưởng con người là yếu tố hàng đầu để bảo đảm sự tồn vong vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, tính quan trọng sống còn của yếu tố này đã được chính thể Việt Nam nỗ lực hết mình dùng mọi thủ đoạn từ bạo lực đến tuyên truyền.

Tinh thần yêu nước là một tinh thần cao thượng, không có cái “đuôi’’ do sự quy chụp, gán ghép nào có thể làm sai lệch. Những mưu toan vì lợi ích cục bộ, lợi ích phe nhóm để vu khống, áp đặt trước sau cũng bị phơi bày bộ mặt giả dối trước lịch sử và dân tộc.

Cho dẫu bị những khó khăn, những cáo buộc vu khống, cho dẫu những người dân yêu nước chân chính đã phải sa vào nhà tù do chính thể cầm quyền giăng bẫy như Nguyễn Hoàng Hải tức blogger Điếu Cày… Nhưng với tinh thần yêu nước bất diệt tồn tại hàng nghìn năm, dân tộc Việt Nam không thể nào để cho những luận điệu tuyên truyền lừa bịp dập tắt nhuệ khí hào hùng của ông cha để lại, nhuệ khí của Cáo Bình Ngô, nhuệ khí của Đông A, Bạch Đằng, Vạn Kiếp….

Đòi hỏi chủ quyền đất nước là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi con dân Việt Nam. Tư tưởng ấy là bất diệt, không kẻ nào dù tinh vi, thâm độc và quyền lực đến đâu có thể xuyên tạc sang ý nghĩa khác được. Sự lừa dối như cái kim trong bao, không sớm thì chiều ắt phải lòi ra. Bằng chứng cho thấy càng ngày càng nhiều những tiếng nói đã cất lên để khẳng định chủ quyền đất nước.

Điều ấy nói lên rằng: Không thể nào xuyên tạc tinh thần yêu nước thành những cụm từ xảo trá như “diễn biến hoà bình” hoặc “âm mưu bạo loạn”..

Việc nhà cầm quyền Việt Nam càng hăng say đàn áp những tấm lòng yêu nước, càng quy chụp và trấn áp những tiếng nói yêu nước thương nòi càng chứng minh rõ hơn điều mà lâu nay người dân đã ngờ ngợ: “Chính quyền Việt Nam coi nhẹ sự mất nước, chỉ sợ lo mất Đảng”. Vì Đảng mới đưa lại lợi ích cho những cá nhân chóp bu này bất chấp vận mệnh của dân tộc, của Tổ Quốc.

Mọi âm mưu đang nỗ lực để lừa bịp quần chúng nhân dân, lừa bịp cả dân tộc đều sẽ thất bại bởi chúng xuất phát từ động cơ quyền lợi cá nhân, quyền lợi phe nhóm. Những động cơ đê hèn như vậy sớm muộn cũng bị đè bẹp bởi chính nghĩa dân tộc, đất nước. Lịch sử đã chứng minh và ngày nay sẽ tiếp tục minh chứng cho quy luật muôn đời này.

Ngày 18/11/2009
Thương Phong

Nguồn: Nữ Vương Công Lý


Hội nghị Người Việt, một trò lường gạt trơ trẽn!

18/11/2009

Cách đây đúng 20 năm, ngày 09-11-1989, Bức tường Berlin ở Đông Đức bị nhân dân phá sập. Biến cố này đã phơi bày tất cả bộ mặt của chế độ cộng sản tại Đông Đức nói riêng và tại các nước Cộng sản toàn cầu nói chung. Đó là một trò lường gạt thô bỉ và vĩ đại, che giấu một bản chất gian dối và bạo tàn, che đậy một xã hội đầy huyết lệ và tội ác, đúng như câu định nghĩa của người Pháp: “Communisme: sang, fer, misère” (Chủ nghĩa CS là sắt, máu, khốn cùng) và như lời phê phán của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II (người đã hạ đo ván CS): “Communisme: Mensonge, rien que du mensonge!” (Cộng sản chỉ thuần là dối trá, lường gạt). Cuộc kỷ niệm hoành tráng tại thành phố Berlin hôm 09-11-2009 mới rồi, với sự tham dự của nhiều chính khách lỗi lạc từ thế giới dân chủ và khoảng 100.000 người, đã một lần nữa phơi bày dung nhan ghê tởm của chủ nghĩa, chế độ và chính đảng Cộng sản.

Thế nhưng, bên trời châu Á, CSVN vẫn tiếp tục mù quáng và trâng tráo chơi trò lường gạt, đặc biệt đối với đồng bào hải ngoại. Mới đây thôi, từ 18-07 đến 05-08-2009, một sinh hoạt gọi là “Trại hè Việt Nam 2009 dành cho thanh thiếu niên kiều bào với chủ đề “Ngọn đuốc dẫn đường” đã diễn ra với nhiều hoạt động sôi nổi trên 11 tỉnh, thành phố từ Bắc vào Nam”. Điểm nhấn của Trại hè lần này xoay quanh nội dung gọi là “theo dấu chân Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng Dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới”; đang lúc thật ra đương sự chỉ là một tên gian hùng, tròng ách độc tài lên cả đất nước, đẩy Tổ quốc vào thảm họa đủ mọi mặt, và không hề được UNESCO xưng tụng là danh nhân văn hóa thế giới.

Vài hôm nữa đây, từ 21 đến 23-11-2009, tại Hà Nội sẽ diễn ra cái gọi là “Hội nghị người VN ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ nhất”, do bộ Ngoại giao CS triệu tập, với chủ đề “Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước”, có sự tham dự của khoảng 1.500 thành viên gồm hàng lãnh đạo cấp cao của đảng, của bộ máy cai trị CS ở trung ương lẫn địa phương, cùng khoảng 850-900 “đại biểu kiều bào” từ 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (theo thông tin mới nhất). Hội nghị sẽ thảo luận 4 chuyên đề: “Xây dựng cộng đồng người VN ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về đất nước”, “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người VN ở nước ngoài”, “Chuyên gia, trí thức kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”, và “Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”.

Điểm dối trá lường gạt thứ nhất, đó là danh xưng tiếm đoạt: “đại biểu kiều bào”. Có ai bầu cho những người Việt hải ngoại về nước lần này đâu mà gọi họ là “Ðại biểu”! Ðiều tồi tệ hơn nữa là trong số 850 kẻ mang hiệu danh cao quý này, có đến một nửa là cán bộ nhà nước – tức những nhân viên làm việc cho các tòa đại sứ Hà Nội khắp năm châu – nên số “Việt kiều” thực sự chỉ vào khoảng vài trăm mạng, và hẳn là những kẻ thân với Cộng sản. Cách sắp xếp thành viên tham dự như thế cho thấy nhà cầm quyền VN muốn bảo đảm là sẽ không có sự kiện nào (từ phát biểu, hành động đến quyết định) sẽ diễn ra ngoài ý muốn của họ.

Điểm dối trá lường gạt thứ hai, đó là nội dung 4 chuyên đề thảo luận. Bốn chuyên đề này thật ra đã được trình bày trong Nghị quyết 36 của trung ương đảng CS (ra ngày 26-03-2004). Qua hơn 5 năm thực hiện, bốn điều này đã chẳng đạt được thành quả nào, vì hầu hết đồng bào hải ngoại đều biết tỏng Nghị quyết ấy chỉ là một công cụ nhằm khai thác, khống chế, chia rẽ và lũng đoạn cộng đồng của họ (y như đàn anh Trung cộng đối với Hoa kiều trên thế giới). Thành quả duy nhất của nó là lôi kéo được một số thành phần cần sự yểm trợ về tài chánh của CS để làm ăn ngoài nước hoặc trong nước.

Điểm qua từng mục, trước hết người ta thấy việc “xây dựng cộng đồng người VN ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về đất nước” là một chuyện bằng thừa. Dù có một số bất đồng về phương pháp và đường lối, đại đa số đồng bào hải ngoại đều đoàn kết trong mục tiêu chống chế độ độc tài độc đảng tại quê nhà, đều thành đạt rực rỡ (nhờ không có CS) với hơn 300 ngàn chuyên gia đủ loại, trong đó có nhiều khuôn mặt làm vẻ vang dân Việt như khoa học gia Dương Nguyệt Ánh và dân biểu Cao Quang Ánh tại Hoa Kỳ, bộ trưởng y tế Philipp Rösler tại Đức, giáo sư Trịnh Xuân Thuận tại Pháp, tân giám mục Nguyễn Mạnh Hiếu tại Canada… Họ đều hướng về đất nước chứ không hướng về đảng CS, vì thế chẳng mấy ai hồi hương để phục vụ dưới cái ách của chế độ. “Ðại đoàn kết dân tộc” chỉ là một chiêu bài lường gạt quá cũ rích, vì cả một lịch sử dài cho thấy đó chỉ có nghĩa là ở dưới trướng của đảng, nằm trong tay nhà nước, để giúp cho chế độ tồn tại, với mối nguy thường trực “bị vắt chanh bỏ vỏ”!

Thứ đến, “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người VN ở nước ngoài” là việc mà đồng bào hải ngoại đã làm từ lâu và làm rất tốt. Những lễ hội truyền thống, những dạng hình nghệ thuật (cổ và kim), những tác phẩm văn hóa (thơ văn, ca nhạc, sử địa…), các lớp học Việt ngữ đã được các cộng đồng người Việt khắp nơi trân trọng giữ gìn và phát triển. Đang khi đó thì tại VN, kể từ 1954 đến nay, biết bao giá trị văn hóa đã bị thủ tiêu (điển hình qua cuộc Cải cách nông nghiệp, cuộc Tấn công Mậu Thân), bao công trình văn hóa bị phá bỏ (hàng vạn ngôi chùa với di sản vô giá từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn, mới nhất là vụ xóa sổ di tích Hoàng thành Thăng Long và đền thờ Lý Chiêu Hoàng), bao ý nghĩa văn hóa bị bóp méo (thờ tên đồ tể Hồ Chí Minh bên cạnh các giáo tổ và anh hùng dân tộc, tạo ra quái thai “Văn hóa đảng”, công nhận “làng văn hóa” là làng không có phản đối những bất công của cường quyền…). Đặc biệt cái nôi của văn hóa cho mỗi người là trường học thì bị băng hoại vì giả dối và bạo hành, vì tham nhũng và bóc lột, vì đầu độc và ngu dân.

Việc kêu gọi “chuyên gia, trí thức kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước” cũng là một trò lường gạt quá cũ. Ai mà không nhớ tới kinh nghiệm đau thương của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Tiến sĩ Trần Ðức Thảo, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện… Sau khi lấy 2 bằng tiến sĩ lúc mới 23 tuổi tại Pháp, luật sư Trường trở về nước hành nghề, sau đó theo “cách mạng”. Năm 1956, vì viết bài phê bình những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, ông đã bị tước hết mọi công việc, quyền lợi, phải sống như kẻ bị khai trừ, lây lất nghèo đói cho tới chết. Tiến sĩ triết học Trần Ðức Thảo, khi rời nước Pháp năm 1951 để trở về Bắc Việt tham gia kháng chiến, thì đã thấy ngay cái học của mình bị Hồ Chí Minh khinh khi bằng cách chỉ giao cho dịch các truyền đơn sang Pháp ngữ. Năm 1956, vì có viết một bài về vấn đề phát triển tự do dân chủ cho nhóm Nhân văn Giai phẩm nên ông bị kết tội là phần tử phản động. Bị tước mọi phương tiện sống, Tiến sĩ Thảo trở thành một kẻ ăn mày lang thang. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, sau một đời cung cúc phục vụ CS kể từ khi về nước năm 1963, cuối cùng thì đã bị khai trừ vì tội viết “Thất trảm sớ” gởi Quốc hội CS….

Còn các “Doanh nhân kiều bào [muốn] góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước” thì hãy nhớ tới gương ông Nguyễn Trung Trực, Việt kiều Úc về đầu tư ngành ngân hàng, bảo hiểm, bị sạch túi; ông Trịnh Vĩnh Bình, Việt kiều Hòa Lan về đầu tư ngành dầu hỏa không những bị tước lột mà còn bị tù đày; ông Nguyễn Gia Thiều, Việt kiều Pháp (chồng hoa hậu Hà Kiều Anh) về đầu tư ngành viễn thông cũng bị tán gia bại sản và tù tội; ông Nguyễn An Trung, Việt kiều Nhật, về VN làm giám đốc Công ty Sài Gòn Ôtô rồi lâm vòng lao lý; ông Nguyễn Đình Hoan, Việt kiều Mỹ, về đầu tư giáo dục, chẳng những mất hết của cải mà còn bị tù, bị vu khống, bị cấm rời VN, bị Công an làm tình làm tội… Họ cũng chớ quên vụ cò mồi Trần Trường, Việt gian tay sai cho Việt Cộng ở Mỹ, về đầu tư đào ao nuôi cá, rồi cũng bị khốn đốn và vặt trụi; vụ ông Đỗ Thành Công, Việt kiều Mỹ, về thăm gia đình ở Phan Thiết, bị Công an bắt giam, chụp mũ là khủng bố, bị kết tội bịa đặt là âm mưu đánh phá Toà đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội….

Điểm dối trá lường gạt thứ ba, đó là Cộng sản còn gọi Hội nghị này là “Hội nghị về nguồn”, cụ thể hóa “chính sách trở về cội nguồn của người VN ở nước ngoài”, trên “tinh thần hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc cùng hướng về nguồn cội”. Nguồn cội của con Hồng cháu Lạc đúng là Đất Mẹ VN, nhưng tuyệt nhiên khó có thể hướng về khi Đất Mẹ bị cai trị bởi một chế độ sai trái về phương diện chính trị và đạo đức. Không thể “về nguồn” theo nghĩa chấp nhận làm nạn nhân của một tập đoàn chuyên phản bội, chấp nhận làm tay sai cho giai cấp tư bản đỏ, chấp nhận làm tôi trung phục vụ đảng CS, nếu không sẽ đi vào con đường máu và nước mắt như tu đoàn Bát Nhã hiện thời. Không thể “về nguồn” khi CSVN ngày càng hiện nguyên hình là một tổ chức hoạt động không giấy phép, dùng bạo lực để cưỡng chiếm tài sản của toàn dân, phạm 4 tội ác cơ bản: tội thành lập một chế độ cai trị bất chính; tội tổ chức việc tham ô ngày càng tinh vi, lộ liễu và trắng trợn; tội đem giang sơn Tổ quốc bán cho lân bang, vừa để trả nợ chiến phí, vừa để được bảo vệ ngai vàng; tội phát triển các tệ đoan xã hội nhằm làm cho quần chúng, nhất là giới trẻ, ham mê trác táng, để nhân dân phần nào giảm đi cường độ chống bạo quyền (theo Đỗ Thái Nhiên, Về nguồn hay về hùa?).

Nếu tập đoàn lãnh đạo Cộng sản thực tâm đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi đảng phái thì trước khi tổ chức Hội nghị Người Việt, họ phải làm những việc sau đây: 1- phóng thích lập tức và vô điều kiện các tù nhân chính trị, 2- chấp nhận một xã hội đa đảng, đa nguyên, 3- cho phép báo chí tư nhân được xuất bản, 4- mời các nhân vật bất đồng chính kiến trong lẫn ngoài nước tham dự Hội nghị. Bằng không thì dù có tổ chức hàng chục Hội nghị như thế, CS cũng chẳng lừa gạt được ai, ngoại trừ những kẻ muốn về VN để chung tay bóc lột đồng bào.

BAN BIÊN TẬP

Nguồn: Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 87, ngày 15-11-2009